Tuesday, September 4, 2007
Học Mỹ Thuật trên truyền hình
Friday, August 31, 2007
VAI TRÒ CỦA TRỰC GIÁC ĐỐI VỚI NGƯỜI MUA TRANH
Những người mua tranh do trình độ nghệ thuật và nghề nghiệp khác nhau, thường có nhu cầu thưởng thức khác nhau và đưa ra quyết định mua tranh trên cơ sở trực giác của mình.
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là vai trò của trực giác có ý nghĩa như thế nào đối với người mua tranh. Người có trực giác nghĩa là có khả năng tiên đoán, có khả năng biết trước chớp nhoáng sự việc sẽ xảy ra, có khả năng quyết đúng một việc cần phải quyết định và không giải thích được. Nếu không có trực giác, người mua tranh sẽ lúng túng trước bức tranh cần lựa chọn. Muốn có trực giác tốt cần phải rèn luyện trực giác thông qua việc thường xuyên được sống trong môi trường nghệ thuật. Nhiều người mua tranh có trực giác tốt đã mua được những tác phẩm mỹ thuật có giá trị cao với giá rất rẻ, thời nào cũng có.
Đời sống văn hóa cao đòi hỏi các họa sĩ cũng cần phải có trực giác để cho ra những tác phẩm thỏa mãn trực giác của người thưởng thức thẩm mỹ.
Trực giác đối với những bức tranh hiện thực
Platon (428-374 tr.CN) so sánh hội họa như chiếc gương soi để xét đoán giá trị của tác phẩm mỹ thuật, là sự mô phỏng ngoại dạng hay mô phỏng hiện thực. Arisrtote (384-322 tr.CN) cho rằng mỹ thuật thuộc vào loại nghệ thuật mô phỏng.
Leon Battista Alberti (1404-1472) nhà hoạt động mỹ thuật thông thái thời Phục hưng khuyên : "điều cực kỳ quan trọng là vui thích mô phỏng thiên nhiên với tất cả sự chú tâm và lòng nhiệt thành cần thiết"
Các nhà mỹ thuật cổ điển thế kỷ 17,18 cho rằng cái đẹp không thể tách rời sự thật của những hình thể tự nhiên, những tiến bộ khoa học kỹ thuật cần phục vụ đắc lực cho công việc của người sáng tác mỹ thuật.
Courbet (1810-1877) nói "tôi chỉ vẽ cái gì tôi trông thấy". Auguste Rodin (1840-1917) nói rằng nguyên lý duy nhất trong nghệ thuật là sao chép cái mà ta nhìn thấy, mọi phương pháp khác đều không bền vững, không có một cách thức nào khác để làm cho thiên nhiên đẹp hơn.
Tiêu chuẩn này đã tác động lĩnh vực mỹ học từ thời đại này sang thời đại khác làm cơ sở đánh giá tác phẩm mỹ thuật để đi tới quyết định của người mua tranh.
Trực giác đối với những bức tranh có ý nghĩa tượng trưng
Phật giáo cho đời là bể khổ. Nguyên nhân của mọi khổ não là do "sinh". Tùy mức độ tiếp nhận giáo lý Phật ở mỗi dân tộc, khi vào các chùa phật chúng ta vẫn thường thấy những cảnh tượng phổ biến như bánh xe luân hồi (biểu tượng của Phật giáo), cây bồ đề (cây thiêng của Phật), con voi trắng (tượng trưng cho một hóa kiếp của Phật Thích ca)...
Nghệ thuật Hồi giáo lấy hình tròn tượng trưng vẻ đẹp hoàn thiện của vũ trụ, của thánh thần; bông hoa xanh tượng trưng sự nảy nở vĩnh tồn của học thuyết Allah; tháp chuông biểu tượng sự cao cả, siêu việt của thần linh. Tín đồ Hồi giáo chú trọng trang trí thánh đường sặc sỡ dù giàu hay nghèo. Vì nghệ thuật Hồi giáo cấm sử dụng hình người nên những hình học đơn giản (thẳng, góc, vuông, đa giác, lập phương, nón, tròn, trụ, bầu dục, trôn ốc, mặt cầu) được kết hợp khéo léo trang trí cho các tác phẩm mỹ thuật của mình. Khi lệnh cấm vẽ hình được nới lỏng họ sử dụng những hình cách điệu động vật, tưởng tượng những hình kỳ dị nửa cầm thú rất phong phú... tác phẩm mỹ thuật loại này thường giầu tính trang trí và ẩn ý tượng trưng.
Các tôn giáo thường dùng những biểu tượng có ý nghĩa tượng trưng. Người mua tranh là các tín đồ rất nhạy cảm mua những bức tranh có liên quan tới tôn giáo mà mình thờ phụng.
Trực giác đối với bức tranh hình thức chủ nghĩa
Trong một thế kỷ trở lại đây, ở các nước tư bản, các giá trị nghệ thuật đặt nặng lên đôi vai người nghệ sĩ thì lỗi lầm lớn nhất của các trào lưu hội họa là sự thiếu quan tâm về kỹ thuật, họ sẵn sàng dùng màu bôi bừa lên khung vải. Một số họa sĩ đương đại miệt mài đi tìm ngôn ngữ nghệ thuật, họ vung vãi màu sắc tạo thành những mảng, vết lằng nhằng khó hiểu. Nếu chỉ vẽ tranh bằng ký hiệu một cách tự động thì sáng tác hội họa có lẽ không phải là công việc khó khăn. Thực ra ý tưởng mà nghệ sĩ có khả năng truyền cảm sau khi chính vốn kỹ thuật sử dụng chất liệu của anh ta đã được chuẩn bị. Người mua tranh phải đạt được hứng thú: "nắm bắt được ý tưởng và kỹ thuật thể hiện tác phẩm" của người sáng tác. Người mua tranh phải cảm nhận được quy luật nội tại của ngôn ngữ nghệ thuật mà người sáng tác tìm tòi. Nếu không trực giác được giá trị của bức tranh hình thức chủ nghĩa, người mua tranh sẽ tránh xa nó.
Vấn đề trực giác của người mua tranh
Mỗi con người cần có thị hiếu thẩm mỹ nhất định. Có thị hiếu thẩm mỹ mới có ý thức thẩm mỹ, biết thưởng thức mỹ thuật và có thái độ thẩm mỹ. Thái độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân bao giờ cũng chứa đựng khả năng lựa chọn trong việc đánh giá.
Trong đời sống hàng ngày, mỗi khi có cơ hội có điều kiện, nhu cầu thẩm mỹ xuất hiện điều khiển con người, kích thích trực giác thưởng thức. Tùy theo điều kiện sống ở mỗi con người mà nhu cầu thẩm mỹ có khác nhau. Chắc chắn nhu cầu mỹ thuật có sẵn trong mỗi con người và khi có cơ hội là nó trỗi dậy đòi hỏi đáp ứng. Chúng ta cũng không thể nói người mua tranh không biết thưởng thức, mua phải bức tranh kém chất lượng. Đôi khi việc mua tranh không hẳn chỉ là nhu cầu thưởng thức mà còn có nhu cầu cá nhân khác hoặc đánh bóng thương hiệu của mình.
Theo Immanuel Kant (1724-1804) thưởng thức mỹ thuật thể hiện bằng sự thỏa thích. Đối tượng tạo nên sự thỏa thích được gọi là cái đẹp. Cái đẹp là đối tượng của sự chiêm ngưỡng. Cái đẹp là cái làm hài lòng một cách phổ quát mà không bằng khái niệm, không cần sự trợ giúp của suy lý, không thể chứng minh được. Cái đẹp không cần chứng cớ, không cần những tham chiếu, vì nó là cái không thể bắt chước được. Cái hữu ích gợi lên mục tiêu, một công dụng, trái lại, cái đẹp là không giới hạn. Cái đẹp gợi ra một sự hòa hợp nội tại trong kết cấu của tác phẩm và cũng gợi lên sự hòa điệu giữa tác phẩm và nhu cầu thẩm mỹ của chúng ta.
Đứng trước một tác phẩm, người mua tranh luôn luôn thận trọng và thường đặt câu hỏi: Tại sao người ta lại vẽ thế này, yếu tố quan trọng chi phối bức tranh nằm ở đâu, giá trị ở chỗ nào, đằng sau bức tranh còn ẩn giấu cái gì nữa. Nếu người họa sĩ khi vẽ không tự đặt câu hỏi cho mình, thì người họa sĩ sẽ bế tắc trên con đường tìm tòi sáng tạo vì người mua tranh sẽ hỏi những câu ấy. Người mua tranh sở dĩ dè dặt mỗi khi đứng trước một tác phẩm vì họ nghĩ rằng lao động nghệ thuật là một lao động đặc biệt mà họ không có khả năng thực hiện.
Sáng tác mỹ thuật có người nệ thực, có người để cho trí tưởng tượng bay bổng, khai thác cái vô hình. Điều ấy làm người mua tranh cảm khoái và ngạc nhiên.
Sở thích có giá trị tương đối và ta không thể nào thu gọn sự đẹp vào những quy tắc phổ quát. Mua tranh chính là mua giá trị nghệ thuật tác phẩm, dù rằng nó chỉ có giá trị tương đối. Đây chắc chắn là vấn đề khó, phức tạp và tế nhị đòi hỏi một trực giác nhất định. Tuy vậy, người mua tranh có thể chú ý những khía cạnh của từng bức tranh cụ thể để "trực giác" khi bức tranh có những dấu ấn:
- Truyền thống dân tộc, truyền thống địa phương, truyền thống văn hóa
- Của thời đại, phản ánh được sắc thái của dân tộc, không gian văn hóa
- Có tính nhân văn vì con người, cho con người và do con người
- Có hiệu quả thẩm mỹ chỉ dành riêng cho số ít người có tiếng tăm, địa vị
- Là tác phẩm có giá trị và làm cho tác giả trở thành bậc thầy
- Là tác phẩm đại diện cho một trường phái mỹ thuật
- Là tác phẩm nổi tiếng, chứa đựng một số nội dung thật rõ ràng
- Là tác phẩm có một số ưu điểm, giải quyết được chúng một cách thỏa mãn
- Là tác phẩm có ảnh hưởng tới một lĩnh vực nghệ thuật nào đó
- Là tác phẩm đặt nền móng cho những kiệt tác ra đời
- Là tác phẩm phủ nhận phong cách mỹ thuật đã được thừa nhận
- Tác phẩm là nguyên nhân của sự tranh cãi.
- Là tác phẩm đánh dấu sự chuyển hướng sang phong cách đang thịnh hành
Người mua tranh thường đưa ra quyết định dựa trên trực giác và sự phân tích đến sau vì tác phẩm mỹ thuật làm ra chính là để thưởng thức hơn là để tranh luận. Người mua tác phẩm có khi biến nghệ thuật thành một hàng hóa và dùng tiền đẩy nghệ sĩ chạy theo thị hiếu riêng của mình. Mỹ thuật khi trở thành thương mại thì người sáng tác mỹ thuật tự đánh mất phong cách, các tác phẩm trở nên một thứ hình thức bố cục trang trí rối rắm nhưng nhạt nhẽo. Nhiều gallery làm hại tác giả bởi ý tưởng mà họ khơi gợi cho nghệ sĩ mỗi khi đặt hàng.
Tác phẩm nghệ thuật và người mua tranh có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tác phẩm sống nhờ người mua tranh và người mua tranh luôn luôn cần tác phẩm.
Điều kiện của cá nhân để mua tranh
Nếu cho rằng cần đi sâu vào bản chất của mua tranh thì cũng cần phải nói rằng việc mua tranh không tự nhiên mà có, cũng không phải chỉ vì bức tranh ấy đẹp mà phải từ yêu cầu của điều kiện sống sinh hoạt, khả năng kinh tế, trình độ kiến thức và trực giác của người mua tranh.
Tinh thần con người được hưởng thụ từ nhiều yếu tố và giá trị của tác phẩm. Những yếu tố hợp thành chắc chắn sẽ có liên quan tới đời sống tâm lý, kiến thức xã hội, tiềm năng kinh tế cá nhân, sự nhậy cảm giá trị tác phẩm và trí tưởng tượng. Những người sống ở miền Bắc Việt Nam, ôm ấp những cảm giác thận trọng, thích ăn uống nghiêng về một đời sống có trật tự, ngăn nắp. Nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của họ có chuẩn mực, bài bản. Người miền Trung sống giữa thiên nhiên khắc nghiệt, bên bờ biển đông nắng chói thiên về thương mại, ăn uống có tiết độ, tuân thủ những tập quán xã hội, những tổ chức chính trị, những tình cảm truyền thống và những khả năng thích hợp cho việc thỏa mãn các loại hình nghệ thuật đi vào chiều sâu của tình cảm trầm buồn man mác. Người miền Nam ít sống giữa thiên tai, dễ kiếm sống thì thiên về cuộc sống cộng đồng, nhóm họp, tươi vui thích hợp cho việc hưởng thụ những trào lưu nghệ thuật đương đại tràn vào, nghệ thuật ứng dụng đa dạng.
Kết luận
Ngày nay sự hỗn độn rất phổ biến. Sự hỗn độn này được thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm mỹ thuật đương đại, có lẽ vì không có sân chơi chung cho người sáng tác và người thưởng thức mỹ thuật. Nền văn minh vật chất đã tạo ra thời đại đầy tham lam, đó là hiện tượng đáng tiếc và mỹ thuật cũng vậy.
Xu hướng ngày nay càng có nhiều họa sĩ lao vào con đường sáng tác chuyên nghiệp. Điều khó tránh khỏi là từ sự cọ xát trên thương trường chứ không phải do cuộc đua tài sáng tạo. Thực chất là sự cạnh tranh (thường là khó lành mạnh), tất yếu sẽ dẫn đến sự phân hóa nghệ thuật sâu sắc. Trong tương lai gần, thị trường tranh Việt Nam nếu không có sự tham gia tích cực của Hội Mỹ thuật sẽ trở thành trung tâm của hàng lưu niệm rẻ tiền, hàng tứ xứ có căn nguyên từ sự tham lam vô độ của thị trường nghệ thuật.
Sức ép kinh tế gia đình đẩy họa sĩ có 3 sự lựa chọn: dành một phần thời gian làm tranh thương mại để lấy kế sinh nhai, dành một phần thời gian làm tác phẩm có chuẩn mực nhất định để gửi triển lãm và dồn tâm huyết để làm tác phẩm độc đáo tham dự các giải thưởng và chờ khách mua giá cao. Chính sự lựa chọn làm cho giới sáng tác mỹ thuật bị phân hóa và có thể họa sĩ kiếm tiền giỏi chưa chắc đã là họa sĩ tài năng.
Người mua tranh có nhu cầu của mình và nếu người sáng tác chạy theo thị trường, không thuyết phục được người mua tranh, không cố làm cho người mua tranh hiểu những gì mình đang làm cũng coi như thị trường tranh bị mất khách hàng.
Mỗi đất nước có một niềm tự hào của mình là có những nét riêng truyền thống độc đáo mà nước khác không có. Trách nhiệm của người sáng tác cần phải biến những nét độc đáo của đất nước thành giá trị nghệ thuật trên mỗi tác phẩm mỹ thuật. Mọi vật liệu sáng tạo đều có sẵn trong thiên nhiên, người mua tranh chỉ cần người nghệ sĩ chuyển cái có sẵn thành cái bất ngờ, hình tượng cao quý của cái thật thành cái đẹp mong đợi. Người sáng tác mục kích hiện thực, nhạy cảm với nền văn minh ấy, dần dần linh cảm biến dạng những hiện thực thành những hiện thực mới, không còn là tình cảm mà là những dự báo. Một khi người mua tranh cần người sáng tác mỹ thuật là lúc nền mỹ thuật của chúng ta đang trên đà phát triển.
Lê Đình Thuận
MỸ THUẬT ỨNG DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Thuật ngữ MTƯD mới được đề cập tới trong vài thập niên gần đây ở nước ta, nhưng xét về mặt thực tiễn thì hoạt động mỹ thuật ứng dụng đã tồn tại từ lâu, ngày càng phát triển theo nhu cầu sử dụng và năng lực thẩm mỹ qua từng thời kỳ lịch sử. Điều này mang tính phổ biến ở Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới.
Hơn bao giờ hết, ngày nay MTƯD phát triển nhanh và mạnh mẽ chưa từng thấy ở nhiều quốc gia trên thế giới. MTƯD làm thay đổi nhanh chóng sản phẩm vật chất hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của con người trong đời sống hiện đại.
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật hiện đại cũng góp phần thúc đẩy, tương hỗ cho sự sáng tạo MTƯD. Chúng ta nghiên cứu MTƯD là đề cập tới mối quan hệ của con người với tự nhiên và xã hội thể hiện trong sản xuất, cũng như trong sinh hoạt vui chơi và hưởng thụ, thưởng thức sản phẩm vật chất mang giá trị văn hóa. Chức năng và mục đích của MTƯD là nhằm thỏa mãn tâm sinh lý của người sử dụng, tức hàm chứa về mặt thẩm mỹ và chứa đựng giá trị sử dụng, phù hợp với mọi đối tượng và phù hợp về mặt giá cả kinh tế.
Sản phẩm của mỹ thuật ứng dụng hết sức đa dạng và phong phú, với nhiều chủng loại sản phẩm và có giá trị rất lớn đối với đời sống sinh hoạt của con người, phục vụ cho con người, thỏa mãn cho con người cả về nhu cầu vật chất và tinh thần. Và sự thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần ấy cần phải phù hợp với bản sắc văn hóa và thị hiếu thẩm mỹ của mỗi dân tộc cộng đồng người khác nhau. Thế giới đồ vật được con người tạo ra gắn liền với môi trường sản xuất và đời sống hằng ngày của con người. Điều căn bản nhất của MTƯD là tập trung đáp ứng các nhu cầu của xã hội. Sự hiện diện của nó được nhận thấy ở tất cả mọi mặt trong cuộc sống của con người như: ăn, mặc, ở trong sinh hoạt, học tập, sản xuất, các phương tiện, công cụ, sản xuất, lao động, vui chơi, giải trí ... Từ sản phẩm đến bao gói đựng chứa cho đến những sản phẩm công nghệ thông tin hàm chứa giá trị trí tuệ cao, tất cả đều mang dấu ấn của MTƯD.
Xem xét quá trình hình thành và phát triển của mỹ thuật trong lịch sử phát triển của loài người thì MTƯD có nguồn gốc từ rất sớm. Nó tồn tại ngay trong các công cụ lao động và sinh hoạt của con người từ những thuở ban đầu. MTƯD tồn tại ở những nhu cầu tối thiểu, thiết yếu của con người như: ăn, mặc, ở. Và rồi tùy vào điều kiện phát triển của xã hội và tư duy nhận thức, nhu cầu thị hiếu của con người mà MTƯD được biểu hiện ở những lĩnh vực khác cao hơn. Sự phát triển ngày một cao hơn về giá trị sử dụng và giá trị thẩm mỹ của các sản phẩm mỹ thuật ứng dụng được coi như một yếu tố khi nghiên cứu về quá trình phát triển của văn minh loài người. Đó chính là quá trình tìm kiếm sự thống nhất về các giá trị trong một chỉnh thể sáng tạo, tức chính là đồ dùng, vật dụng. Từ chỗ chỉ để dùng phục vụ sinh hoạt, tiến đến biết làm đẹp đồ vật, làm đẹp sản phẩm do mình làm ra. Từ những đồ đơn giản, bình thường như: cái cày, cuốc, liềm, dao... phục vụ cho công việc lao động sản xuất của người nông dân đến các đồ cao cấp hàm chứa tính trí tuệ, sáng tạo cao như: Tivi, tủ lạnh, xe máy, máy bay, tàu vũ trụ ... và ta thấy quá trình hoàn thiện đồ vật về cơ cấu và cả hiệu quả sử dụng là một bước tiến lớn lao trong quá trình nhận thức để cải tạo thế giới tự nhiên của con người. Khi bước vào bảo tàng thì điều đó được minh chứng thật rõ ràng: những mảnh tước, mảnh ghè đến những vây rìu đá, cuốc đá đến trong công cụ để sinh tồn của con người ở thời kỳ xa xưa đến những cây rìu sắt ngày nay, con người đã phải trải qua những giai đoạn cải tiến và để từng bước khám phá để hoàn chỉnh như thế nào.
Xã hội càng tiến hóa, càng văn minh thì ở thế giới đồ vật (do con người sáng tạo) tính kỹ thuật và thẩm mỹ càng được kết hợp chặt chẽ và cấu thành tồn tại trong nhau một cách hoàn hảo như một chỉnh thể. Con người không chỉ có nhu cầu sử dụng mà còn có nhu cầu thưởng ngoạn vẻ đẹp ở chính trên ngay các đồ dùng hàng ngày. Từ cái đĩa, bát ăn cơm, cái chén uống nước ... đều cần tạo dáng, chất liệu, màu men trang trí và sử dụng thuận tiện bền đẹp. Một ngôi nhà để ở không chỉ đơn thuần là nơi che chắn nắng mưa, mà còn đòi hỏi không gian, kiến trúc; cái đẹp tổng thể kiến trúc với môi trường; cái đẹp trong trang trí nội thất, ngoại thất; vừa đẹp vừa ngăn nắp, thuận tiện sinh hoạt của các nhu cầu khác: ăn mặc, đồ dùng, quạt điện, ti vi, tủ lạnh, xe máy ... Tất cả đều là đòi hỏi và yêu cầu trong đời sống mà MTƯD phải đáp ứng. Và những đòi hỏi khách quan đó đối với mỗi sản phẩm hàng hóa ngày càng cao hơn cả hai mặt: đẹp và ích dụng, gắn bó trong đời sống tinh thần và vật chất của con người.
Sản phẩm MTƯD là sản phẩm hay kết quả sáng tạo mang giá trị ích dụng và thẩm mỹ chứa trong một sản phẩm. Một sản phẩm MTƯD không chỉ dừng ở sự đạt giá trị công năng, công thái học, sinh thái học mà phải bao hàm cả giá trị thẩm mỹ mang tính xã hội, văn hóa và phản ánh trình độ, phát triển kỹ thuật công nghệ của cộng đồng. Tất cả những giá trị ấy thống nhất chặt chẽ và được liên kết trong một chỉnh thể, đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội. Từ sáng tạo mẫu mã, sản xuất ra sản phẩm rồi đến tay người tiêu dùng là một chu trình mang giá trị sử dụng, giá trị kinh tế, giá trị văn hóa thẩm mỹ theo cơ chế của cung và cầu. Và cơ chế ấy là một vấn đề luôn luôn được đặt ra trong xã hội, cho bất kỳ một loại sản phẩm mỹ thuật ứng dụng nào. Và thực sự chúng đã trở thành cơ sở, động lực cho MTƯD phát triển và phát triển không ngừng.
Con người luôn luôn hướng tới cái đẹp bởi vì sự đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp là một đặc trưng thuộc bản chất người. Trong quá trình phát triển, nhu cầu thẩm mỹ của con người đòi hỏi ngày càng cao, càng nhiều và đa dạng, đã thúc đẩy MTƯD cũng phải phát triển không ngừng để đáp ứng những nhu cầu đó. Và như vậy MTƯD phải đảm bảo nhiệm vụ sáng tạo đi liền với chế tác và sản xuất, với mục tiêu đáp ứng ngày một tốt hơn về nhu cầu vật chất và tinh thần cho con người. Điều đó cho thấy hoạt động MTƯD chứa đựng trong nó tính nhân văn. ở Việt Nam hiện nay, với bề dày tinh hoa truyền thống mỹ thuật dân tộc, giao lưu và tiếp thu những giá trị mỹ thuật - kỹ thuật của nhân loại, đội ngũ các nhà thiết kế mỹ thuật đang có nhiều cơ hội hơn kế thừa phát huy sáng tạo. Sự phát triển mạnh mẽ đó đã và đang tham gia tác động trực tiếp vào trong đời sống sản xuất công nghiệp, kinh tế và văn hóa xã hội của chúng ta.
Sản phẩm thời kỳ đầu của MTƯD Việt Nam được khám phá là những đồ trang sức bằng đá, vỏ trai, vỏ ốc, mảnh gỗ, mảnh tre ... Nhiều nhà khảo cổ đã tìm thấy đồ trang sức bằng đá, vỏ trai, vỏ ốc ... thời xa xưa cách ngày nay hàng vạn năm. Đó là những vòng khuyên tai, hoa tai mà người xưa đã đẽo gọt, chế tác, tạo dáng từ chất liệu đá, sừng, răng thú vật để làm đẹp cho con người. Đến giai đoạn đồ đồng con người lại sáng tạo ra những trang sức bằng đồng như hoa tai, vòng tai, vòng đeo cổ, đeo tay... Tất cả chúng được coi là những sản phẩm MTƯD đầu tiên.
Lịch sử phát triển loài người và xã hội là một quá trình lịch sử lâu đời. Ngay từ những thế kỷ trước Công nguyên, qua những dấu tích văn hóa của nhiều cuộc khai quật khám phá của các nhà nghiên cứu, các nhà khảo cổ trên thế giới và ở Việt Nam đã làm hiện rõ vô số hiện vật thuộc lĩnh vực MTƯD đã từng tồn tại nhiều thế kỷ trước đây ở khắp nơi, đặc biệt nổi bật là ở các trung tâm văn minh lớn của thế giới. Qua các công trình kiến trúc cổ xưa của người Ai Cập, Hi Lạp - La Mã, Trung Quốc, Châu Phi, ngay cả ở Việt Nam, sản phẩm mỹ thuật ứng dụng cũng được tìm thấy dấu tích qua những đồ dùng, vật dụng của người Việt cổ.
Có thể nói rằng MTƯD là loại hình có quá trình hình thành, phát triển. Sự phát triển của MTƯD gắn liền với quá trình lao động sáng tạo của con người. MTƯD là nghệ thuật của sự kết hợp giữa cái thực dùng và cái đẹp, giữa cái lâu bền và cái thẩm mỹ. MTƯD là cái tổng hòa của nhiều ngành: cả khoa học kỹ thuật, cả quy trình công nghệ, sản xuất và kỹ thuật. Giá trị thẩm mỹ của nó không chỉ làm đẹp cho cuộc sống, mà làm đẹp cho cả thế giới vật chất do con người tạo ra. Trên thực tế ta dễ dàng nhận thấy nếu không có sự tham gia của các giá trị thẩm mỹ thì ở thế giới đồ vật gắn liền với đời sống chúng ta, sẽ tồn tại những đồ vật khô cứng, khó coi và như vậy, sự phát triển của con người cũng như phát triển xã hội sẽ không thể toàn vẹn về mặt văn hóa thẩm mỹ cũng như sự hiểu biết về mặt khoa học.
Hiện nay, vấn đề đưa cái đẹp vào đời sống văn hóa tinh thần và vật chất của xã hội đang rất sôi động. Để hình thành được đồng bộ sự quy hoạch về mặt thẩm mỹ không phải dễ dàng, nhưng trong thực tế lịch sử của đất nước, cha ông ta đã làm được như vậy. Để thực hiện chiến lược phát triển đất nước thì con người là một nhân tố được đặc biệt quan tâm. Và con người được nói đến với vai trò phát huy khả năng sáng tạo. Sự phát triển tiềm năng sáng tạo của con người trong mọi vấn đề xã hội nói chung và trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng nói riêng là yếu tố tạo nên sản phẩm hàm chứa “chất xám” cạnh tranh. Và trong xu thế hóa toàn cầu về kinh tế, sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ nhưng con người vẫn là trung tâm. Sự tuân thủ nghiêm ngặt các qui trình công nghệ, ý thức say mê tìm tòi cải tiến kỹ thuật đã tác động trực tiếp đến số lượng và chất lượng sản phẩm. Tất cả những điều đó đều có sự liên quan trực tiếp đến việc phát huy năng lực tinh thần của người lao động. Thực tế đã chứng minh, việc quan tâm đến nhân tố con người không được phép giới hạn ở việc giáo dục tư tưởng chính trị mà còn phải quan tâm đến việc nâng cao trình độ nhận thức thẩm mỹ cho nhân dân. Nâng cao năng lực thẩm mỹ cho công chúng sẽ làm cho thế giới tinh thần của nguồn nhân lực ngày càng phong phú và tinh tế, giúp họ có khả năng đánh giá nhanh nhạy trước cái đẹp, sáng tạo theo qui luật cái đẹp và có khả năng phản ứng trước cái xấu, cái lạc hậu, phản tiến bộ.
Đối với sự phát triển, chúng ta đều biết rằng sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia đòi hỏi sự tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với việc xây dựng môi trường văn hóa, tiến bộ xã hội. Sự kết hợp hài hòa giữa kinh tế và văn hóa sẽ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của mỗi quốc gia. Và trong quá trình phát triển, MTƯD như là một yếu tố cấu thành của văn hóa đã tham gia một cách tích cực, hiệu quả vào quá trình này. Phát triển mỹ thuật ứng dụng trong sự phát triển xã hội chính là quá trình thẩm mỹ hóa đời sống và sản xuất theo định hướng nhân văn.
MTƯD đã và đang tồn tại, đồng thời tác động mạnh mẽ đến các quá trình, các lĩnh vực của hoạt động kinh tế. Thông qua hoạt động thiết kế sáng tạo, mỹ thuật ứng dụng đã chủ động và tích cực đưa cái đẹp vào tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Hội nhập quốc tế và sự phát triển của công nghệ đã đưa đến cho con người các sản phẩm tiêu dùng có hàm lượng công nghệ và thẩm mỹ cao như: mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm, bao bì sản phẩm; truyền thông quảng cáo, xúc tiến thương mại, môi trường thẩm mỹ trong sản xuất và đời sống... Tất cả những sản phẩm ấy đã tác động đến tình cảm, nhận thức, tư duy của con người và góp phần vào việc điều chỉnh hành vi, lối sống mới mang hoạt động ấy của MTƯD tính khoa học và thẩm mỹ cho con người và xã hội. Tất cả những điều đó là cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong quá trình phát triển hiện nay.
Nguyễn Tiến Mạnh
MỘT CÁCH NGHĨ VỀ NGHỆ THUẬT HIỆN THỜI
Lịch sử phát triển của loài người được gắn liền với văn hóa nghệ thuật nó cùng với triết học và tôn giáo hình thành lên các hệ tư tưởng trong suốt lịch sử sinh tồn của nhân loại. Triết gia Hegel (1770-1831) gọi 3 phạm trù đó thuộc về tinh thần tuyệt đối.
Triết gia cổ đại Platon (427-347TCN) đánh giá: “Đời sống của tinh thần là văn hóa của linh hồn, nó dẫn đắt đời sống nhân loại”: Điều đó chứng tỏ văn hóa nghệ thuật là giá trị cốt tử của nhân loại. Nó thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần: nhận thức, đạo đức, chính trị, đời sống tâm linh trong mọi quan hệ xã hội...
Hình thái cao nhất của văn hóa thẩm mỹ chính là văn hóa nghệ thuật - ở đó hoạt động nghệ thuật được đánh giá như một vai trò chính yếu nền tảng của văn hóa thẩm mỹ. Và càng ngày nghệ thuật càng trở nên thiết yếu trong đời sống. Hêgel đánh giá “Nghệ thuật là trình độ mở đầu của nhận thức”.
Chính bởi vậy mà chúng ta thấy từ thời cổ đại con người đã bắt đầu biết bảo tồn và sưu tầm nghệ thuật.
Bắt đầu từ vua chúa đến các nhà quý tộc rồi đến các giới thượng lưu giàu có trong xã hội... dần dần đến cả quần chúng nhân dân đều có thú chơi và sưu tầm nghệ thuật. Ngày nay khi sưu tập được một bức tranh quý người ta có thể mở tiệc lớn để chiêu đãi và khoe với bạn bè.
Việt Nam từ sau thời mở cửa - cho đến nay đã ra đời hàng trăm các gallery ở các thành phố lớn - cùng với hàng ngàn họa sĩ già trẻ đã cung cấp cho thị trường thế giới hàng vạn, hàng vạn các tác phẩm hội họa và điêu khắc (chủ yếu là hội họa). Hầu hết các khách du lịch đến Việt Nam đều mua tranh ở các gallery và ở ngay cả nhà riêng của các họa sĩ.
Nhưng các phòng tranh như gallery ở Việt Nam lại rất ít - ngược lại hệ thống bảo tàng lại rất lộng lẫy và hoành tráng. Nhất là hệ thống các bảo tàng mỹ thuật, hàng ngàn các tác phẩm điêu khắc, hội họa hiện đại được trưng bày hết sức trang trọng trong những ngôi nhà lớn đồ sộ có kiến trúc độc đáo.
ở các nước khác, công nghệ giải trí rất phong phú, đa dạng từ đại chúng đến cao cấp.
ở Việt Nam nền công nghệ giải trí không được như các nước khác để bù lại là sự bùng nổ của hàng trăm các gallery bán tranh, sự hiện diện của hàng nghìn các họa sĩ, phần nào giúp cho khách du lịch nước ngoài bớt đi cảm giác buồn tẻ khi ghé thăm Việt Nam, và “Kinh đô Thăng Long” của chúng ta càng trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.
Còn hệ thống bảo tàng mỹ thuật của Việt Nam thì sao? quá nghèo nàn và lạc hậu. Riêng bảo tàng mỹ thuật thì gần nửa thế kỷ nay vẫn chẳng thay đổi trong cái khu đất như một xóm nhỏ. Phải chăng có thể gọi nó là “Bảo tàng tàng” điều này mỗi chúng ta tự lý giải.
Tuy vậy chúng ta có thể tự hào rằng nghệ thuật hội họa của Việt Nam đã và đang ở thời kỳ hoàng kim, và có thể còn phát triển rạng rỡ hơn, có thể nói chúng ta đã xuất khẩu được một số lượng tranh khá lớn vào thị trường thế giới nhưng chúng ta tự hỏi tại sao tại sao tranh của các họa sĩ Việt Nam đương đại vẫn chưa lọt được vào các bảo tàng danh tiếng của thế giới.
Tôi tin tưởng sâu sắc rằng trong hàng vạn tác phẩm hội họa điêu khắc được khách nước ngoài sưu tập có không ít tác phẩm đạt đến giá trị đỉnh cao có thể là những tác phẩm lớn ở tầm cỡ quốc tế nhưng không đủ mạnh để có được vị trí trong các bàn tiệc lớn về nghệ thuật của thế giới. Phải chăng do vị thế văn hóa của dân tộc chúng ta, hoặc chúng ta không có các triết gia lớn, các nhà mỹ học lớn, các nhà phê bình lớn, các nhà sưu tập ở đẳng cấp thượng thặng đứng ra bảo hộ và nâng cao giá trị cho các tác phẩm của các nghệ sĩ Việt Nam.
Trong khi đó người bạn láng giềng khổng lồ bên cạnh chúng ta là Trung Quốc, các nhà sưu tập thế giới và các nhà sưu tập Trung Quốc đã và đang đi tìm mua một cách sôi động các tác phẩm mỹ thuật hội họa và điêu khắc của Trung Quốc và giá trị của tác phẩm cũng tương đương với một số những tác phẩm lớn của thế giới và một số họa sĩ còn đương sống đã có giá tranh lên đến hàng triệu mỹ kim.
Tại sao các cuộc bán đấu giá lớn tranh nghệ thuật quốc tế, tranh của họa sĩ Việt Nam hầu như không có và nếu có thì giá trị về mặt tài chính có thể nói là không được xếp hạng và cực kỳ thấp.
Trong các cuộc thi hội họa quốc tế ở trình độ cao chúng ta cũng không thể xuất hiện trên bảng vàng danh dự. Chúng ta phải tự hỏi rằng: nghệ thuật của chúng ta đã có đẳng cấp ở trên thế giới và nó có thể hy vọng trở thành văn hóa đỉnh cao?
Nền nghệ thuật đó có khả năng khai sáng được thế giới để trở thành nghệ thuật siêu việt bình đẳng bên cạnh các kiệt tác của nhân loại. Chính vì tất cả những điều đó tôi có thể khẳng định rằng hoạt động nghệ thuật của chúng ta hiện nay, đời sống nghệ thuật của các họa sĩ của chúng ta hiện nay là đời sống của nghệ thuật chưa đạt đỉnh cao - nghệ thuật thứ cấp hay có thể gọi là nghệ thuật bình dân được chăng? chứ chưa thể là nghệ thuật đỉnh cao có khả năng xâm nhập vào hệ tinh thần đỉnh cao như lời của Hêgel: “Nghệ thuật - tôn giáo triết học thuộc về ý niệm tuyệt đối là cấp độ cao nhất của tinh thần”.
Và có lẽ nghệ thuật đỉnh cao mới có khả năng nâng cao giá trị văn hóa của một dân tộc và tạo nên ảnh hưởng của một nền văn hóa này với một nền văn hóa khác hay ảnh hưởng tới toàn bộ nền văn hóa của nhân loại.
Triết gia nhà thơ Taagore (1861 - 1941) cho rằng:
“Mỗi dân tộc có trách nhiệm làm cho cái ưu tú nhất mà nó có trở thành tài sản chung của nhân loại”
I. Nghệ thuật chưa đạt đỉnh cao hay “nghệ thuật thứ cấp”
Nền mỹ thuật của chúng ta đã đạt được thành tựu khá lớn có thể tự hào rằng dân tộc chúng ta cũng rất giàu cảm xúc, lãng mạn có năng khiếu về nghệ thuật hội họa điêu khắc, chúng ta thử nhìn sang các lĩnh vực khác của nghệ thuật như văn chương, thi ca, âm nhạc... của chúng ta rõ ràng hội họa và điêu khắc của chúng ta ưu thế hơn nhiều. Khả năng vượt biên giới xâm nhập vào đời sống nhân sinh thế giới có thể nói là khá mạnh, ấn tượng và hoành tráng.
Để trả lời cho câu hỏi tại sao ở phần đầu tôi xin thưa rằng:
Đối với nghệ thuật thứ cấp “nghệ thuật bình dân” bản chất quan trọng của nó là:
- Tính thực dụng lên ngôi
- Tính giải trí được đề cao
- Quan tâm đến khách hàng nhiều hơn là cá nhân nghệ sĩ
- Mục đích tối cao là phải bán được
- Sự nhận định đánh giá trái hoàn toàn không có tính chất phê phán. Mà chỉ là đưa ra những tiêu chí thực tế của nó.
Một số họa sĩ của trường phái này sau khi có thành tựu, họ có phong cách riêng, và có một chút danh. Họ cứ sản xuất mãi, những tác phẩm của họ ngày càng nhiều hàng trăm hàng nghìn bức cứ tương tự giống nhau không thay đổi nội dung và đề tài. Bởi thói quen đã trở thành quán tính nên những sản phẩm của họ dần dần hướng tới tinh thần của nghệ nhân hơn là nghệ sĩ. Điều này không phù hợp với phẩm chất của nghệ thuật lớn - nghệ thuật của những thiên tài.
II. Nghệ thuật đỉnh cao là gì (hay có thể là nghệ thuật lớn)
Bản chất cốt tủy của nghệ thuật là đưa chúng ta đến những ấn tượng siêu việt - từ ấn tượng siêu việt đó thôi thúc chúng ta có cung cách sống cao đẹp hơn, thôi thúc chúng ta tìm kiếm, khám phá tâm hồn và tư tưởng của chúng ta ngày càng thăng hoa và tiến hóa hơn.
Triết gia Socratet (470 - 391 TCN) đã nói: “Một tâm hồn được tỏa sáng sẽ phát ra sức mạnh của vẻ đẹp siêu nhiên”.
Nghệ thuật lớn đòi hỏi sự tận tâm tận lực, đòi hỏi nhiều ở những cảm xúc sâu xa cùng những trí tuệ uyên bác, thông thái có tâm hồn và tư tưởng lớn, có sự phiêu lưu đến cùng, có sự hiểu biết rộng để không bị lầm lẫn, có sự trải nghiệm cuộc đời sâu sắc để có tính nhân văn. Bản thân nó chứa đựng những hoài bão, khát vọng. Nó đòi hỏi bản sắc riêng, tính độc đáo và phong cách riêng. Nó chứa đựng nhiều ý tưởng táo bạo, kích thích sự sáng tạo, hướng đạo thẩm mỹ, tự nó mang bản tính khai sáng.
Theo các nhà mỹ học lớn của thế giới, nghệ thuật đỉnh cao hay nghệ thuật lớn cần các yếu tố:
1) Nó khám phá lĩnh vực cảm nhận về thị giác còn chưa được biết tới của kinh nghiệm con người về thị giác.
2) Sáng tạo hoặc đổi mới về hình thái không gian.
3) Sự hòa hợp của hai phương diện trên không thể tách rời.
Tôi xin lấy ví dụ, nhà điêu khắc người Anh Henry Moore. nói về Brancusi Constantin (1876 - 1967): “ Từ thời Gô-tích, nền điêu khắc châu Âu đã mọc lên quá nhiều rêu cỏ, đủ thứ u lồi bề mặt, che lấp hoàn toàn hình dạng. Sứ mạng đặc biệt của Brancusi là vứt bỏ hết lớp che phủ còi cọc đó đi, và làm cho chúng ta một lần nữa có ý thức về hình dạng” (Từ điển Mỹ thuật - Lê Thanh Lộc).
Điêu khắc của Brancosi đã tối giản đến cực điểm những hình thể trầm lặng, sâu lắng nhưng vô cùng mơ màng và bay bổng, nó gợi cho ta những kỷ niệm hiện hữu rất gần bên ta nhưng lại là huyền ảo trong giấc mơ xa cách.
Họa sĩ Pollock (1912 - 1956) “Ông đã vứt bỏ tư tưởng truyền thống về bố cục căn bản. Ông sáng tạo ra một hình thức mới của không gian hội họa. Qua nghệ thuật của ông, chúng ta phát hiện trực tiếp tâm trạng vô thức của người nghệ sĩ”. (Từ điển Mỹ thuật - Lê Thanh Lộc)
Bằng đường nét nhảy múa tự động, Pollock đã tạo nên những cảm xúc vô cùng mãnh liệt. Ông đã giải phóng đường nét khỏi những hình khối, truyền cho những bức tranh của ông một năng lượng tinh thần.
Họa sĩ Mark Rothko (1903 - 1970), “một trong những nhân vật hàng đầu của trường phái New York và đặc biệt là một trong những nhà sáng tạo loại tranh nền màu” Colour Field Painting (Từ điển Mỹ thuật - Lê Thanh Lộc)
Mark Rothko đã giải phóng mầu sắc ra khỏi những gò bó của chủ nghĩa Hiện thực. ông sử dụng tính ưu việt của màu sắc trong những hình khối và trong những mảng màu vô định để thể hiện tính bi kịch, trạng thái ngây ngất hay u uẩn. Hình ảnh trên tranh của ông đầy màu sắc hấp dẫn, nó như gợi lên lòng mộ đạo, sự huyền bí và sự vô thời gian của thời đại ông sống.
Triết gia người Pháp Voltaire (1694 - 1778) đã viết: “ Sức mạnh của nghệ thuật là ở chỗ đồng thời vừa kêu gọi những cảm xúc vừa đánh thức sự nhận biết của trí tuệ” - “ Tác phẩm Cai trị thế giới “.
Tôi thiết nghĩ dân tộc chúng ta giàu cảm xúc, có tâm hồn lãng mạn, thông minh và có trí tuệ. Chúng ta ý thức được giá trị của văn hóa nghệ thuật, ý thức được tình thế thực tại của chúng ta. Chúng ta cần có ý chí hơn, cần có bản lĩnh hơn, cần sự phiêu lưu hơn. Chúng ta giao lưu rộng mở hơn, chúng ta trau dồi để trở nên thông thái, minh triết hơn. Tâm hồn và tư tưởng của chúng ta sẽ phong phú hơn. Chúng ta không thể không hy vọng chúng ta sẽ có những tài năng lớn, trở thành những viên ngọc trong những ngôi đền của nền mỹ thuật thế giới.
Vân Thuyết
Monday, August 20, 2007
Tiền tỉ mua tranh
Hàng tỉ USD đã được chi trong thời gian gần đây để mua các tác phẩm hội họa, trong đó người mua đã trả đến 72,8 triệu USD cho một bức tranh trừu tượng của Mark Rothko (1) và 71,7 triệu USD cho một bức tranh in của Andy Warhol (2).
Cách đây không lâu, khó ai tưởng tượng nổi tranh của hai họa sĩ đương đại Mỹ này lại có thể bán được với mức giá kinh hoàng như vậy! Điều gì đã xảy ra ở thị trường tác phẩm nghệ thuật thế giới? Và đâu là giới hạn của giá tranh đã lên cao ngất trời thế? Liệu cái bong bóng giá tranh ấy rồi sẽ nổ tung?
Từ London tới Bắc Kinh, từ Mumbai đến Moscow, ở đâu có các phiên đấu giá tác phẩm nghệ thuật của các công ty danh tiếng nhất như Sotheby's, Christie's, người ta cũng nghe được những câu đầy kinh ngạc, chẳng hạn:
- Điều gì đã tạo nên giá tranh như thế?
- Chưa bao giờ thấy thị trường tranh như vậy!
- Giống như người ta bị bỏ bùa mê, bị ma ám!
Không thể không kinh ngạc khi theo dõi thị trường nghệ thuật: Theo thông tin của Artprice.com, trong năm 2006 có ít nhất 810 tác phẩm với mức giá trên 1 triệu USD/tác phẩm được bán trong các phiên đấu giá; và chỉ trong thời gian gần đây (năm 2007), đã có trên 200 tác phẩm mức giá trên 1 triệu USD được bán; trong khi vào mấy năm cuối cùng của thập niên 1990 vừa qua, mỗi năm chỉ có 100-200 tác phẩm mức giá trên 1 triệu USD được bán.
Đó là chưa kể những tác phẩm được giao dịch “ngầm”, không qua các công ty đấu giá, hay được bán tại các hội chợ nghệ thuật (art fair).
Thậm chí, như một nhà kinh doanh tác phẩm nghệ thuật tiết lộ: “vì cái thị trường ấy phát triển nhanh hơn thị trường bán đấu giá, tôi tin chắc rằng mỗi năm phải có tới trên 1.000 tác phẩm mức giá trên 1 triệu USD được tiêu thụ ở đó”.
Bức tranh đắt giá nhất từ trước đến nay: Số 5, 1848 của Jackson PollockNhư vậy thì tổng cộng trong năm qua phải có đến hơn 2.000 tác phẩm mức giá trên 1 triệu USD được bán? “Chắc chắn là như thế!” - Nhà kinh doanh trả lời ngay. Trong số hơn 2.000 tác phẩm ấy, có nhiều tranh, tượng được bán với giá vài chục triệu USD; nghĩa là nhiều tỉ USD đã được đầu tư cho nghệ thuật trong năm 2006.
Hằng năm, tạp chí Forbes đều công bố danh sách các tỉ phú đôla trên toàn thế giới; năm nay, theo Forbes, đã có một sự “bùng nổ tỉ phú đôla” với con số kỷ lục 946 nhà tỉ phú, riêng Mỹ là 415 người (năm ngoái là 371); và có 176 khuôn mặt mới gia nhập câu lạc bộ cực giàu này.
Với chừng ấy tỉ phú đôla thì không có gì đáng ngạc nhiên khi thị trường nghệ thuật trở nên nóng bỏng như đã thấy: “Khi người ta có1 tỉ thì việc bỏ ra 1 triệu chẳng là gì cả”, một nhà quan sát thị trường nghệ thuật kết luận.
Còn một nhà quan sát khác khẳng định chắc nịch: “Không có khoản tiền nào là không thể đạt tới ở thị trường này”. Điều ông ta nói được minh họa cụ thể: Trong thập niên 1980, một tác phẩm của Jackson Pollock (3) được bán với giá 10 triệu USD đã là kỷ lục thì ngày nay người ta có thể bán với số tiền đó tranh của... Peter Doig (4). Tháng 2/2007, một bức tranh của Peter Doig đã được bán với giá 11,3 triệu USD tại nhà Sotheby's ở London; đưa Doig lên cạnh Lucian Freud (5) và Gerhard Richter (6) như là những họa sĩ châu Âu đương thời có tranh cao giá nhất!
Những người quan tâm đến tranh của Jackson Pollock và Peter Doig đều có mặt trong danh sách Top 200 các nhà sưu tập tác phẩm nghệ thuật do tạp chí ARTnews bình chọn mới đây; gồm: các nhà sưu tập tư nhân, các nhà kinh doanh nghệ thuật, giám đốc bảo tàng, các curator (người tổ chức và chọn tác phẩm cho các sự kiện nghệ thuật),...
Và còn điều gì mới nữa trong thị trường nghệ thuật đang khát khao hôm nay? Michael Findlay, giám đốc một gallery ở New York, tiết lộ: “Có những người muốn xây dựng bộ sưu tập với tranh có giá từ 5 triệu USD trở lên, và họ không thể mua bất kỳ thứ gì tại các phiên đấu giá. Tranh của thế kỷ 20 không làm họ thỏa mãn”.
Cũng theo Findlay: “Thời kỳ thị trường nghệ thuật phát triển ngọan mục gần đây nhất là giữa những năm 1987 - 1990; nhưng toàn bộ thị trường khi ấy tăng trưởng đồng đều từng phần, tranh kém chất lượng và giá trị xuống giá; tranh có giá trị và chất lượng trung bình tăng giá, tranh chất lượng và kém giá trị cao giá càng tăng cao.
Tranh Peter DoigCòn bây giờ tranh có chất lượng cao giá đã lên đến đỉnh điểm của nó. Nhưng với giá tiền ở mức kế đó người mua lại chỉ có được tranh kém giá trị hơn nhiều”. Ông nói tiếp: “Những bức tranh lẽ ra có giá chừng 10 - 20 triệu USD thì nay phải trả 50 triệu USD mới mua được, còn tranh giá chừng 2 triệu lại bán được với giá 20 triệu; bởi có một nhóm nhỏ những người quá nhiều tiền đang săn đuổi với bất kỳ giá nào để có được một bức tranh Gauguin vẽ ở Tahiti, một bức chân dung do Van Gogh vẽ, một bức tĩnh vật của Cézanne hay một bức của Pollock, thậm chí một bức của Andy Warhol...”.
Còn các nhà sưu tập tỉ phú hiện nay thì sao? Họ khác gì với Lorenzo de Medici? Neil Meltzer, một nhà kinh doanh nghệ thuật từng làm cho Christie’s, nói: “Vì giá tranh leo thang cỡ đó, để tồn tại trong cuộc chơi này, họ buộc phải có một trí nhớ ngắn ngủn thôi”.
Bởi trong cuộc chơi ấy, điều tai hại là ngay cả các họa sĩ còn trẻ đã có giá tranh cao. Nếu tranh họ bán được, sẽ có một danh sách những nhà sưu tập đang chờ để có được những bức tranh hệt như lần trưng bày trước!”.
Và thị trường tác phẩm nghệ thuật, theo Michael Findlay, đang trở nên méo mó vì đồng tiền của những kẻ quá giàu!
----------------(1) Mark Rothko (1903-1970), họa sĩ Mỹ gốc Nga, theo khuynh hướng Biểu hiện trừu tượng(2) Andy Warhol (1928-1987), họa sĩ Mỹ theo khuynh hướng Pop art(3) Jackson Pollock (1912-1956, họa sĩ Mỹ theo khuynh hướng Biểu hiện trừu tượng. Bức tranh có tên Số 5, 1948 của ông đã được bán với giá cao nhất thế giới, 142 triệu USD vào tháng 3/2006(4) Peter Doig (sinh năm 1959, họa sĩ Anh, chuyên vẽ phong cảnh(5) Lucian Freud (sinh 1922), họa sĩ Đức nổi tiếng với tranh chân dung và khỏa thân(6) Gerhardt Richter (sinh 1932), họa sĩ Đức theo khuynh hướng Trừu tượng
Theo DIÊN VỸ - Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Sunday, April 22, 2007
Hoạ sĩ truyện tranh: Đặt hy vọng vào người trẻ
Nguyễn Thành Phong, SV ĐH Mỹ thuật Hà Nội tự hoạ theo kiểu manga
“Chúng tôi quen nhau từ 5 năm trước, khi cả hai vừa bước chân vào ngưỡng cửa cấp ba. Nhưng từ khi có kế hoạch vẽ truyện tranh cho đến khi có tác phẩm đầu tay là cả một chặng đường dài.Tháng 10/2004 khi công ước Bern có hiệu lực tại Việt Nam, những người như chúng tôi mới có thể chính thức nghĩ tới sự khởi đầu. Trước đó, chúng tôi nghiên cứu thị trường truyện tranh Việt Nam, đọc các tài liệu về manga, phác thảo các kịch bản, và cố gắng hình thành một phong cách vẽ riêng so với các hoạ sĩ khác. Cuối năm 2004, chúng tôi gửi tác phẩm đầu tay đến tạp chí TDDVFC của Phan Thị (lúc ấy đang lừng lẫy với bộ “Thần đồng đất Việt”). Vào thời điểm đó, TDDVFC đang là tạp chí truyện tranh duy nhất tại Việt Nam. Tác phẩm của chúng tôi đã gây sự chú ý. Ngay sau đó, Phan Thị đề nghị chúng tôi hợp tác trong mục “Bán chuyên” nhưng chúng tôi từ chối. Một sự dại dột- nhiều người bảo thế.” Nguyễn Khánh Dương cười. Chỉ trong một thời gian ngắn, rất ngắn, hai cái tên Nguyễn Thành Phong- Nguyễn Khánh Dương đã trở nên nổi tiếng với các độc giả trẻ của truyện tranh.
Sau bộ “Thần đồng đất Việt” của hoạ sĩ Lê Linh thì tác phẩm của Phong-Dương đã được chấp nhận. Kịch bản truyện hấp dẫn với yếu tố hài hước nhẹ nhàng, phong cách vẽ ngay từ khi mới trình làng đã gây nhiều ngạc nhiên với sự mộc mạc nhưng tinh tế. Từ “Nhi và Tũn”, “Long Thần tướng” đến “Orange” đều có sức lôi cuốn mạnh mẽ, đặc biệt với đối tượng teen- vốn không mấy mặn mà với truyện tranh trong nước. Thành công lớn nhất của Phong – Dương là đã thoát ra khỏi ảnh hưởng của manga (Nhật Bản) gần như đã thành truyền thống trong phong cách vẽ của nhiều nhóm vẽ trẻ ở Việt Nam. Những người trẻ như Phong Dương và nhiều nhóm vẽ khác như BRO, Clap, DMM..quả thật đã đem lại sự tươi tắn cho nền truyện tranh vốn già cỗi, quá nặng về giáo dục và kém hấp dẫn của Việt Nam. Cho dù đây mới chỉ là những bước khởi đầu. Và cũng là một sự lựa chọn nghề nghiệp đầy mạo hiểm và thú vị: nghề hoạ sĩ truyện tranh.Không phải đến công ước Bern, người ta mới có đôi chút khái niệm về nghề vẽ truyện tranh. Nhưng với giới trẻ thì trở thành hoạ sĩ truyện tranh vẫn còn là cái gì đó quá xa lạ. Trong khi ở Nhật Bản, hoạ sĩ truyện tranh là một nghề có thể trở thành tỷ phủ, được xã hội tôn trọng.
Dân mỹ thuật ra trường không mấy ai ôm ấp hy vọng đi theo con đường này. Làm hoạ sĩ, nhà thiết kế... thậm chí thất nghiệp đi vẽ panô quảng cáo, nhưng trở thành hoạ sĩ truyện tranh thì...phải xem lại.Hiện tại mới chỉ có một cơ sở duy nhất đào tạo chính thức trong lĩnh vực này: trường ĐHDL Hồng Bàng (TP.HCM) với chuyên ngành sáng tác truyện tranh mới được thành lập khoảng gần hai năm nay.
Thực tế, các hoạ sĩ trẻ của chúng ta gần như không qua một trường lớp đào tạo chính thức nào về chuyên ngành. Một phần không nhiều là xuất phát từ dân Mỹ thuật, Kiến trúc...Phấn lớn là sáng tác theo cảm tính, theo học một số lớp ngắn hạn do các công ty tư nhân tổ chức và học hỏi các bậc đàn anh.Mọt hoạ sĩ truyện tranh chuyên nghiệp cần phải biết rất nhiều thứ: một nền tảng hội hoạ căn bản (kỹ thuật vẽ người, vẽ background, phối cảnh...), khả năng sáng tác kịch bản, xử lý tranh qua vi tính và thiết kế bố cục hình ảnh...Cũng gần giống như tạo nên một bộ phim: có khâu đạo diễn, kịch bản, thiết kế, bối cảnh...Nhưng khác là hoạ sĩ truyện tranh có khi phải làm tất mọi việc. Khả năng hội hoạ bằng hoạ sĩ chuyên nghiệp. Khả năng viết kịch bản tương đương dân truyền hình.
Trên thực tế, đòi hỏi ở một người toàn bộ những năng lực ấy là hơi khó. Một thành viên của tạp chí M Heaven nói: “Chúng tôi lập thành các nhóm vẽ để khai thác khả năng của từng người".
Phong- Dương là một ví dụ điển hình cho cách thức làm việc này. Nguyễn Khánh Dương đang là SV khoa Công nghệ thông tin (ĐHSP Hà Nội) phụ trách kịch bản, còn Thành Phong - SV ĐH Mỹ thuật thì lo toàn bộ khâu thực hiện.Một nhóm vẽ truyện tranh có thể có nhiều thành viên. Do đó, cho dù bạn không có khả năng của một hoạ sĩ, cơ hội của bạn vẫn còn. Miễn là có một trí tưởng tượng phong phú và khả năng sáng tác kịch bản lôi cuốn. Cộng với sự đam mê và...liều mạng theo đuổi.Sóng gió từ nhiều hướng
Còn đây là Dương
“Chúng tôi chịu áp lực rất lớn từ dư luận. Khi đưa ra một tác phẩm nào đó luôn bị kêu ca là sao mà giống truyện Nhật Bản thế? Họ không hiểu rằng ngay từ khi bắt đầu đã muốn tạo ra một tác phẩm mới lạ không chịu bất kỳ ảnh huởng nào là chuyện không tưởng. Ngay cả Nhật Bản, ban đầu cũng chịu ảnh hưởng của Âu Mỹ. Để tạo ra một phong cách đặc thù, chúng ta – cũng như họ – sẽ phải mất từ 10 năm trở lên.” Kiều Hưng- chủ nhiệm Hội Quán Truyện tranh trẻ miền Bắc nhận xét. Thị trường truyện tranh Việt Nam, con số thực tế có thể lên tới 6- 8 triệu người. Nhưng lại là một thị trường đã quá quen với những tác phẩm đồ sộ của nước ngoài và cực kỳ khắt khe với những sản phẩm trong nước. Một trong ba sáng lập viên của trang web Accvn.net (CLB truyện tranh và hoạt hình Việt Nam), Hitori đã bình luận “Nếu như chỉ biết vẽ đẹp thì họ (các nhóm vẽ trẻ) cũng chưa chắc đã sống được. Bởi phần lớn những tác phẩm của họ, đẹp thì có đẹp đấy nhưng cũng giống như bong bóng xà phòng, động một chút là vỡ vụn, không để lại một cái gì cả.”Cũng trên trang web này, nhiều thành viên đã tỏ ý hoài nghi trước hàng loạt những lời tuyên bố thành lập nhóm vẽ của giới trẻ. “Khả năng ở đâu? Chuyên môn ở đâu? Người đi tiên phong ở đâu? Chính phủ cấp bằng ngành nghề như thế nào? Đào tạo chuyên nghiệp ở đâu? Vẽ như thế nào thì gọi là có tinh thần dân tộc?
Sâm (SV ĐH Sân khấu Điện ảnh - ban điều hành tạp chí truyện tranh MHeaven) từng kể rằng cô và các bạn tham gia xuất bản tạp chí này chủ yếu là do sở thích. “Còn dựa vào nó thì chắc chắn là khó sống được”.
Vậy mà vẫn không thiếu những người đam mê. Như Phong-Dương và nhiều người trẻ khác: “Chúng tôi chỉ mong muốn khắc hoạ cuộc sống Việt Nam, tâm tư Việt Nam đến với bạn đọc qua nét vẽ với tất cả sự trẻ trung, tươi mới của nó. Và trở thành một phần không thể thiếu của truyện tranh VN hiện đại.” Còn có thể trở thành một hoạ sĩ chuyên nghiệp hay không thì xin để thời gian và những nỗ lực tự trả lời.
Trịnh Khánh
Thursday, April 19, 2007
Chơi tranh decor
Mua tranh về chỉ để trang trí nội thất.
Tranh decor là loại tranh rẻ tiền nhất, dành cho những người muốn tạo ra những góc màu sắc vui mắt trong nhà. Cũng có những loại vui mắt kiểu "giả cầy", nhờ kiểu này mà thị trường chép tranh sống sót.
Anh Phạm Hưng kể với SGTT: "Nghĩ cũng buồn cười, giá bức tranh chép chỉ có ba trăm nghìn trong khi cái khung tới chín trăm nghìn, cũng có khung cả triệu bạc. Vác bức tranh về nhà kể, ai cũng lây cái buồn cười của mình". Số là anh Hưng nhờ kiến trúc sư tư vấn chọn tranh bằng cách vào Internet tìm những bức tranh của những hoạ sĩ đương đại, màu sắc phù hợp với không gian cần treo tranh trong nhà, sau đó in ra và đem đi nhờ chép lại. Tranh chép lại treo cũng oách, nhưng hàng "giả cầy" loại này may ra chỉ lừa được khách không sành điệu, chứ không lừa được chính chủ nhân. Thôi thì cứ tạm vui với màu sắc hình thể, đường nét tân kỳ.
Vui được như thế cũng là trường hợp của chị Mỹ Hạnh, kế toán trưởng nhà máy gạch men Cosesco. Chị vốn mê tít bức La Joconde nức tiếng bấy lâu nay của danh hoạ Leonardo da Vinci. Khi xây nhà, chị đã cẩn thận nhờ kiến trúc sư tư vấn chọn nơi đặt bức tranh "giả cầy" ấy. Bức tranh khổ lớn đặt giữa phòng khách luôn thu hút sự chú ý của mọi người. Chị bảo: "Tôi không am hiểu nhiều về hội hoạ nhưng không hiểu sao mỗi lần nhìn vào bức tranh tôi lại có cảm giác thư thái, an lành, mọi lo âu, phiền muộn cũng vơi đi. Với tôi, tranh không chỉ để trang trí cho đẹp mắt mà nó như một liệu pháp tâm lý...".
Phân vân giữa chợ
Nhiều người khi chọn tranh trang trí nội thất thường để cảm xúc của mình quyết định, theo cách hiểu của họ về bức tranh đó. Có khi tranh họ chọn là những tác phẩm kinh điển được sao chép mà ít nhiều họ đã biết đến sự nổi tiếng của nó. Hoặc là tác phẩm của một hoạ sĩ không mấy tên tuổi và thường là ở thể loại tranh phong cảnh gợi nhớ những gì thân thuộc, gần gũi. Giá trị của những bức tranh này thường không lớn, chỉ ở mức một vài triệu, nhưng cái họ có được là tạo nên một thứ không gian xúc cảm ngay trong căn nhà mình.
Nếu chọn xu hướng thích tranh tả thực (realistic), nhưng với không tới Đỗ Quang Em, một hoạ sĩ vẽ tranh tả thực được gallery Lã Vọng ở Hong Kong chọn (nhờ ông vẽ kỹ, khéo tay, không chạy theo số lượng), thì chọn đỡ Lê Tường, một hoạ sĩ trẻ ở Huế, chẳng hạn. Như vậy cũng "gin" hơn là nhờ chép tranh Đỗ Quang Em. Nhưng realistic Việt Nam hầu như vẽ tối nhiều hơn sáng, muốn tìm vẽ sáng phải đến với phương Tây.
"Công nghệ chép tranh" giờ đây đã phong phú hẳn lên. Người ta có thể mang một bức ảnh đến Đồng Khởi nhờ theo mẫu đó vẽ thành một bức tranh. Rồi còn có thể mang lịch đến Ngô Đức Kế để làm mẫu vẽ thành tranh.
Cách đây một vài năm đã nổi lên loại tranh ghép đá quý. Ruby ghép trên đấy là loại ruby chất lượng, chỉ phải tội hạt rất nhỏ, nên giá trị nhỏ. Ông Cao Thành Thái, một nhà sản xuất tranh loại này ở Thị Nghè, cho biết: "Tranh ghép đá quý cũng như một cô gái đẹp, nếu biết tôn tạo giá trị thì sang, không biết thì hèn, nghĩa là cùng một bức tranh đá quý, biết bán thì bán tới hai chục triệu, không biết thì chỉ bán được hai triệu". Ta có thể nghiệm ngược lại, biết mua thì... Nhưng dù tranh đá quý tới 20 triệu đồng, chúng vẫn bị liệt vào hàng tranh decor, vì người làm tranh không sáng tác mà chỉ chọn nhái những danh tác.
Mốt tranh in đá
Nhiều người thực sự lưỡng lự khi không biết phải xếp tranh in đá (lithograph) vào hàng tranh cao cấp hay tranh decor? Vì ở ta giá khởi điểm của tranh mới chỉ từ 500 USD, không cao hơn tranh ghép đá. Nhưng vấn đề không phải ở giá cả, mà còn tuỳ thuộc vào tên tuổi tác giả. Ở Việt Nam không có hoạ sĩ nào làm tranh in đá, vì không có thiết bị; chỉ có hai hoạ sĩ Việt là Lê Phổ và Vũ Cao Đàm bên Tây sản xuất loại này. Trong nước hiện cũng chỉ có hai người mua tranh in đá, trong đó một người là chủ hãng Toàn Mỹ. Tranh in đá là ép giấy qua một miếng đá in. Có bao nhiêu màu là bấy nhiêu lần in. Bên Tây loại này khá được ưa chuộng.
Như thế nếu bạn có được một bức in đá của Vũ Cao Đàm trong nhà thì đẳng cấp của bạn đã được nâng lên, vì dẫu sao tranh họ Vũ ở nhà đấu giá Sotheby's cũng có bức lên đến 21.000-28.000 USD
Sunday, February 11, 2007
Nghề vẽ ở phố Tây
Các họa sĩ trẻ làm việc tại gallery Đức Anh, Bùi Viện, Q.1 |
Hàng trăm bức tranh nghệ thuật to nhỏ đầy màu sắc được trưng bày trong những gian phòng khá chật chội ngay mặt tiền đường Bùi Viện, Q.1 - TP.HCM. Đoạn đường không dài nhưng là nơi "đóng đô" của hàng chục phòng tranh nghệ thuật.
Tranh sao chép hút khách nước ngoài
Gallery Đức Anh nằm ngay ở ngã tư Bùi Viện - Đề Thám, với diện tích chừng 15 m2 nhưng gây ấn tượng bởi hàng loạt bức tranh sơn dầu đủ các trường phái treo kín trên tường và xếp lớp dưới nền nhà. Giữa phòng tranh, 8 họa sĩ trẻ đang mải mê thể hiện những nét vẽ nhanh, chính xác lên khung phông lớn để trước mặt. Họ vừa vẽ vừa liên tục quan sát và so sánh với bức tranh mẫu nhỏ để ở vị trí dễ nhìn kế bên.
Theo quan sát của chúng tôi, trên đường Bùi Viện có khoảng hơn 10 phòng tranh như thế. Những phố xung quanh như Phạm Ngũ Lão, Đề Thám... cũng có khá nhiều phòng tranh. Chị Vui, chủ gallery Đức Anh cho biết phòng tranh của chị đã hoạt động được gần 10 năm nay. Gần đây, do nhiều đơn đặt hàng từ nước ngoài và nhu cầu mua tranh của khách du lịch nước ngoài tăng lên nên chị đã mời khá nhiều họa sĩ trẻ đến làm việc trong phòng tranh này. Phần lớn họ là SV mỹ thuật mới ra trường và một số họa sĩ trẻ có tay nghề giỏi.
Còn chủ của gallery Nguyễn Hoa Tươi trên đường Phạm Ngũ Lão, Q.1 cho biết mỗi tháng phòng tranh của chị bán được trên dưới 10 bức tranh lớn sao chép sẵn, bên cạnh đó, số người chơi tranh đưa mẫu đến sao chép cũng khá nhiều, đa phần là người nước ngoài.
P. Daniel, một khách du lịch đến từ Nam Phi cho biết, những bức tranh sơn dầu do họa sĩ VN thể hiện tại các phòng tranh gây ấn tượng mạnh đối với anh. Anh chỉ cho tôi bức tranh anh đặt vẽ tại gallery A.T, bức tranh theo trường phái ấn tượng có bóng áo dài của cô gái VN đội nón lá nhưng không rõ mặt. Daniel cho biết, một lần tình cờ anh nhìn thấy bức vẽ này ở một phòng tranh bán với giá rất đắt, anh đã xin chụp lại rồi đến phòng tranh này sao chép lại.
Chân dung đắt giá
Bức tranh Nụ hôn của Klimt, một trong những bức tranh đắt giá nhất thế giới đang được đặt sao chép rất nhiều tại các phòng tranh này. Bên cạnh đó là tranh cổ điển của Van Gogh, tranh phố cổ Hà Nội, một số bức tranh nổi tiếng của các họa sĩ trong và ngoài nước như Cậu bé và cái tẩu (Pablo Picasso), Nàng Mona Lisa (Leonardo da Vinci), Thiếu nữ bên hoa huệ (Tô Ngọc Vân)... cũng được các họa sĩ tái hiện rất nhiều.
Hầu hết các họa sĩ ở các phòng tranh này thừa nhận chép tranh chân dung là khó nhất và mất nhiều thời gian bởi không chỉ giống đến từng chi tiết, bức tranh chân dung đạt cần phải thể hiện được cả hồn của bức tranh gốc. Tranh phong cảnh dễ tái hiện hơn nhưng cũng tùy thuộc vào từng trường phái.
Giá bán tranh tại các phòng tranh chênh lệnh nhau khá rõ, tuy nhiên có thể nhận thấy, tranh chân dung luôn đứng đầu về giá. Theo Ngọc Anh, họa sĩ làm việc ở gallery Nguyễn Hoa Tươi, tranh sao chép kích cỡ 60 cm x 80 cm có giá khoảng 800.000 đồng/bức. Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, phần lớn tranh chân dung sao chép sẵn được bày bán có giá 1,5 triệu đến 2 triệu đồng cùng kích cỡ trên. Tranh phong cảnh giá mềm hơn khoảng 800.000 đồng đến 1 triệu đồng một bức cỡ 60 cm x 80 cm. Kích cỡ càng lớn thì giá càng cao, có bức lên tới vài chục triệu đồng.
Phía sau phông vẽ
Đối với những người đã được đào tạo chính quy tại các trường mỹ thuật, việc sao chép tranh không phải là quá khó. Tuy nhiên, để vẽ một bức tranh bằng sơn dầu giống hoàn toàn với bức tranh mẫu và vừa lòng khách hàng thì không đơn giản chút nào. Hoàng, học sinh trung cấp mỹ thuật ra trường 3 năm, hiện đang làm việc cho phòng tranh Thịnh Long, đường Bùi Viện, Q.1, cho biết phụ thuộc vào nội dung và kích cỡ nhưng thông thường mất khoảng 5 ngày để hoàn thành một bức tranh.
Sửa tranh là công việc thường xuyên của những người làm nghề sao chép tranh. “Người chơi tranh, đặc biệt là nước ngoài rất khó tính, có khi phải bỏ ra cả ngày để người sửa tranh theo đúng ý của khách hàng thì họ mới chịu nhận tranh”, Hoàng cho biết. Theo chị Vui, không ít bức tranh dù đã được kiểm tra tỉ mỉ, nhưng khi giao hàng sang nước ngoài, họ lại gửi trả về vì không đạt. Nhiều bức sửa không được đành phải cho vào kho hoặc bán rẻ cho khách du lịch dễ tính.
Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, phần lớn những người làm nghề vẽ tại các phòng tranh này không có lương cố định. Họ được trả công theo sản phẩm. “Nếu là bức tranh lớn có giá trị khoảng 1 triệu đồng, thì bọn mình được trả công khoảng 400.000 đồng. Nhưng cũng có bức chỉ có giá vài trăm ngàn, tiền công cho những bức tranh như thế không đáng là bao”, Hoàng cho biết.
“Người có tay nghề cứng và siêng năng thì mỗi tháng mới kiếm được khoảng 2,5 triệu đến 3 triệu đồng”, chị Vui nói về “lương” của những người làm nghề sao chép tranh. Tuy nhiên, hầu hết các họa sĩ làm nghề sao chép tranh tại các phố này đều rất trẻ, họ cho biết họ gắn bó với nghề sao chép tranh để rèn luyện tay nghề và được làm đúng nghề mình học đã là một hạnh phúc. Một họa sĩ ở gallery Đức Anh cho biết, ngoài giờ làm việc tại phòng tranh, đêm đêm anh vẫn dành thời gian sáng tác những tác phẩm riêng cho khỏi “cùn” ý tưởng và đôi khi cũng bán được với giá cao.
Theo Người lao động
Monday, January 29, 2007
Hội họa Việt Nam: Nhức nhối nạn tranh giả!
Mất cả triệu USD vì mua phải tranh giả tại Việt Nam
Gần đây, giới hội họa Việt Nam thật sự rúng động khi bức tranh Thiếu nữ trong vườn của họa sĩ Nguyễn Gia Trí được đăng quảng cáo trên tạp chí Mỹ thuật Châu Á Asian Art News. Họa sĩ Hồ Hữu Thủ chưng hửng: “Tôi sang Singapore thấy một bức như vậy trên sàn đấu giá, về Việt Nam lại thấy trên tạp chí đăng một bức khác...!, không biết thật giả là cái nào?”. Giới họa sĩ và những nhà sưu tập từng đến Singapore, Hong Kong... đều có chung nhận định là hiện nay thị trường tranh nước ngoài rất ngại tranh Việt Nam vì sợ mua phải đồ rởm, bởi vì những danh họa hàng đầu Việt Nam như Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Lê
Bức Thiếu nữ trong vườn của gallery Ðức Minh này được đăng quảng cáo trên tạp chí Asian Art NewsPhổ .v.v hiện nay không ai là không bị làm giả. Nếu nhìn vào giá chục, giá trăm ngàn USD của tranh các họa sĩ trên, cộng với sự thờ ơ của dư luận và một quy chế quản lý lỏng lẻo thì sẽ hiểu tại sao nạn tranh giả đang lũng đoạn thị trường tranh Việt Nam một cách có đường dây, có hệ thống một cách đáng báo động như hiện nay. Đánh vào tâm lý khách hàng là hay chọn tranh qua catalogue, những đối tượng làm tranh giả thường in những bức tranh giả lẫn lộn bên những bức tranh thật để đánh lừa những khách hàng kém may mắn của mình. Tranh giả có thể là phiên bản sao chép của các bức họa nổi tiếng, hoặc có thể là những đối tượng làm tranh giả mua những phác họa của những họa sĩ nổi tiếng đã quá cố từ người nhà của họ rồi làm thành tranh mới nhưng ký tên như một sáng tác thật của họa sĩ đã mất. Người quá cố bị làm giả là vậy, còn một số họa sĩ vẽ không kịp bán hiện nay cũng sẵn sàng thuê người khác vẽ theo phong cách mình rồi chỉ việc ký tên mình để kịp giao hàng theo kiểu mà PGS TS Nguyễn Đỗ Bảo gọi là “bán chữ ký ăn tiền”. Cho nên, có vị khách Hàn Quốc bỏ gần 1 triệu USD để mua tranh Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái... nhưng khi biết là tranh giả ông gần như ngất xỉu, còn những kẻ đã lừa ông thì chắc cả đời chỉ mong được một vố như vậy! Một vị khách nước ngoài khác mua tranh của hai họa sĩ nổi tiếng Việt Nam, nhưng khi nhờ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam giám định thì bà mới té ngửa là tranh giả. Trong đó, có một bức bà mua từ chính tay người con đẻ của họa sĩ mà bà mến mộ và ngỡ là mình đã mua được tranh thật của ông (!).
Ông Nguyễn Thanh Châu – Tổng thư ký Hội MT TP HCM: Pháp luật quy định việc sao chép tranh không phải là hoàn toàn nghiêm cấm. Nhưng nếu sao chép thì tranh chép phải khác chất liệu tác phẩm gốc, còn nếu cùng chất liệu thì phải có kích thước lớn hơn hoặc nhỏ hơn tác phẩm gốc và phải ghi rõ tên người sao chép ở phía bên phải của tranh...
PGS TS Nguyễn Đỗ Bảo: Nạn sao chép tranh phát triển, người nước ngoài sẽ ngại mua tranh Việt Nam vì nỗi ám ảnh sợ mua phải đồ rởm, thị trường tranh Việt Nam vừa mới nhen nhúm vì thế mà sẽ bị dìm xuống ngay. Cho nên, Bộ VH – TT cần biết rằng muốn “dập” nạn sao chép tranh thì đối tượng phải quản lý không phải là họa sĩ mà là các gallery, vì nạn sao chép tranh xuất phát từ các gallery – khâu trung gian giữa họa sĩ và thị trường.Khoảng thời gian năm 1997, có một số họa sĩ mượn tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng từ người sở hữu tranh nói là để chép lại, nhưng khi tranh trả về cho chủ thì trên thị trường Hong Kong cũng xuất hiện những bức tranh nhái tương tự. Vụ việc được phơi bày trên mặt báo, các bên thưa nhau ra tòa với lời giải thích của người mượn tranh là chỉ chép để... học tập (?). Những trường hợp khác được ông Nguyễn Thanh Châu – Tổng thư ký Hội Mỹ thuật TP HCM cho biết: “Chuyện làm tranh giả Hội chúng tôi đã đề cập nhiều, thậm chí đã phát hiện, đã điểm chỉ, nhưng rồi phát biểu thì chẳng thấy ai nghe, nên cuối cùng rồi cũng đâu vào đó...”. Sự bỏ ngõ đó, theo ông Nguyễn Thanh Châu là do dư luận còn thờ ơ với việc làm tranh giả, còn phần quản lý thì quy định có đó, nhưng để tìm cơ quan thực thi thì không biết gọi ai. Sự thờ ơ của dư luận một phần là do khách hàng mua tranh phần lớn là người nước ngoài, nên khi biết tranh giả thì họ chỉ biết đem đến bảo tàng nhờ... giám định (!), hoặc là đành gạt nước mắt ôm quả lừa trở về cố quốc. Giới am hiểu hội họa hiểu rằng một tranh của Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí .v.v được bán ra hiện nay hầu hết là tranh chép, tranh giả, còn những bức thật nếu lọt vào tay những đối tượng làm tranh giả thì họ sẽ giấu kỹ đến mức bưng bít, phong tỏa mọi băng hình, tư liệu hình ảnh... nên có nghi ngờ tranh giả thì việc tìm bản gốc để đối chiếu cũng là điều hết sức khó khăn.
“Muốn chấn chỉnh nạn sao chép tranh, Bộ VH – TT phải quản lý một cách toàn diện và có những biện pháp nghiêm túc hơn. Đặc biệt, cần có sự phối hợp nhiều bên: Công an văn hóa, quản lý thuế .v.v chứ một mình Bộ làm là chưa chắc đã được việc. Một vài quy chế, quy định cũng không ăn thua gì !” – có thể xem phát biểu trên đây của PGS TS Nguyễn Đỗ Bảo – Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Hà Nội như một lời kiến nghị đến các cơ quan chức năng nhằm mau chóng kiểm soát nạn
... và đây cũng là một bức tương tự của nhà sưu tập tranh Trần Hậu Tuấn. Vậy đâu là Thiếu nữ trong vườn thật của cố họa sĩ Nguyễn Gia Trí? (Ảnh: Ngọc Thạch)tranh giả, đưa mỹ thuật Việt Nam trở lại đời sống lành mạnh. Bởi vì Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ .v.v là những họa sĩ tài hoa hết đời hiến thân cho nghệ thuật và là những người tiên phong đóng góp những viên gạch đầu tiên cho nền hội họa Việt Nam. Nhưng giờ đây, họ đang bị những kẻ làm tranh giả kinh doanh trên tên tuổi, biến tên tuổi họ thành trò lừa đảo; không những làm tổn hại đến uy tín và tài năng của những họa sĩ quá cố mà thị trường tranh Việt Nam vừa mới nhen nhúm trong thời gian trở lại đây cũng đang bị những đối tượng làm tranh giả làm cho lắt lay, yểu mệnh.
Ông Hoàng Đức Toàn – Vụ trưởng Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh Việt Nam: “Làm tranh giả là một việc làm phi pháp phải bị lên án, xử phạt và truy tố!”
Hoạt động sao chép tranh, làm tranh giả đang diễn ra nhức nhối đã đặt ra vấn đề quản lý đối với các cơ quan chức năng. Nhân đây, chúng tôi có cuộc phỏng vấn với ông Hoàng Đức Toàn – Vụ trưởng Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh về vấn đề này.
- Thưa ông Hoàng Đức Toàn, ông đánh giá thế nào về tác hại của nạn sao chép tranh giả?
- Sao chép tác phẩm tạo hình mà không được sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm là một việc làm phi pháp phải bị lên án, xử phạt và truy tố. Chính sự sao chép tranh không đúng quy định làm lẫn lộn giữa thật và giả đã làm giảm lòng tin củangười mua, làm xấu đi những ấn tượng tốt đẹp về mỹ thuật Việt Nam với bạn bè quốc tế. Chúng tôi mong rằng với sự hợp tác của các cơ quan báo chí, sự phối hợp các cơ quan chức năng sẽ làm lành mạnh hoạt động sao chép tác phẩm tạo hình.
- Nhưng sự quản lý của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực này còn tương đối lỏng lẻo, thưa ông?
Về việc này lãnh đạo Bộ VH - TT đã chỉ đạo Vụ Mỹ thuật – Nhiếp ảnh xây dựng Quy chế sao chép tác phẩm tạo hình. Chúng tôi đã soạn thảo, tổ chức hội thảo, tổ chức nhiều cuộc họp lấy ý kiến các cơ quan như Cục bản quyền tác giả VHNT, Hội MTVN, các Sở VHTT, Hội VHNT các tỉnh, thành phố cùng các tổ chức, cá nhân hành nghề sao chép tranh.v.v. Quy chế đã được góp ý, sửa chữa 12 lần và sắp tới Vụ Mỹ thuật – Nhiếp ảnh sẽ trình Bộ trưởng Bộ VH - TT ký quyết định ban hành nhằm tạo một hành lang pháp lý để những đối tượng hành nghề sao chép tranh hoạt động đúng pháp luật, bảo vệ quyền tác giả và là cũng đồng thời bảo vệ quyền lợi những người
Chơi tranh
Đến các gallery trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Đề Thám, Đồng Khởi, Lý Chính Thắng, v.v..., ở TPHCM, dễ dàng nhận thấy những phiên bản các tác phẩm điển phạm – nổi tiếng, từ cổ điển đến hiện đại, rồi đương đại.
Mona Lisa của Leonardo Da Vinci có lẽ là tác phẩm được nhiều người biết đến nhất, và cũng dễ nhìn thấy ở các gallery này, giá có thể vài trăm nghìn đến vài triệu, tùy kích cỡ và công phu của người chép. Vì không có hiểu biết cơ bản về lịch sử nên họ tìm đến những tác giả nổi tiếng là điều tất nhiên.
Những thông tin rộng rãi về tác giả này đủ để họ lấy làm kiến thức, hiểu biết và tự hào, khi có một bức tranh (dù chép thôi) treo trong nhà.
Vì gu thẩm mỹ thấp, đa số sẵn sàng bỏ tiền ra mua một bức tranh chép, có khi giá còn cao hơn những tác phẩm của họa sĩ độc lập khác.
Đi mua một bức tranh chép của Lê Phổ, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Phan Chánh, v.v..., rồi so giá của các ngân hàng khác, sẽ biết được điều này.
Nhiều họa sĩ đương thời muốn sống được hoặc nhái phong cách, hoặc sản xuất hàng loạt nếu tranh của mình bán được. Trường hợp của Đỗ Quang Em, Hoàng Chương, Nguyễn Thanh Bình, Trương Tuấn Kiệt, v.v..., là ví dụ.
Tại sao chuộng tranh giả, tranh chép
Một, vì sự giáo dục và định hướng thẩm mỹ của ta còn sơ sài, chưa được cập nhật, chưa giúp người chơi tranh làm chủ được quan điểm của mình.
Hai, thị trường tranh giả, tranh nhái tràn lan, để tìm mua một bức tranh thật, có chất lượng thật khó. Giá tranh của thị trường Việt Nam trong những năm qua bị trượt dài là do điều này.
Trường hợp của Bùi Xuân Phái là ví dụ dễ thấy nhất. Các nhà sưu tập và cả người giữ bản quyền cũng không thể phân biệt được đâu là tranh thật, giả, nên cách tốt nhất là thôi không mua hoặc hạ giá mua xuống mức thấp nhất.
Ba, tranh giả, tranh chép dễ chơi, vì nó là tác phẩm hoặc tác giả phải nỗ lực tìm hiểu nhiều. Tranh giả, tranh chép cũng dễ chịu hơn, nếu có giá cao cũng yên tâm bởi tiếng tăm của tác phẩm bão lãnh, không phải phập phồng như mua tác phẩm mới.
Trong các cuộc đấu giá tranh ở khu vực Hong Kong, Singapore, Ma Cao, Thượng Hải, Indonesia, Hàn Quốc, v.v..., giá tranh (code) của Việt Nam thường bét nhất.
Theo nhiều giám tuyển nghệ thuật (curator), không phải các họa sĩ và tác phẩm Việt Nam thiếu đẳng cấp, do thị trường tranh khó kiểm soát, những họa sĩ thế kỷ 20 bị giả nhan nhản, không cách nào phát hiện ra được. Những họa sĩ đương thời thì làm photocopy.
Tại Indonesia, những họa sĩ đương đại của họ có thể bán bức tranh với giá trên 100.000 USD, thậm chí 250.000 USD, thông qua các cuộc đấu giá.
Còn các họa sĩ danh giá nhất Việt Nam đương thời, cũng chỉ ì ạch ở mức giá dưới 20.000 USD, mà rất ít khi bán được.
Họa sĩ Hồ Hữu Thủ, một tác giả thường có tranh trong các cuộc đấu giá khu vực, tâm sự: “Đừng để người chơi tranh, vốn lương thiện và khao khát tìm hiểu cái đẹp, lại bị lừa tới hai lần. Một, thói quen mua sắm chung của xã hội. Hai, bị vọng ngoại, chỉ tin vào các tác phẩm ngoại quốc”.
Theo Thể Thao&Văn Hóa
Nữ hoạ sỹ Việt kiều vẽ chân dung Bùi Xuân Phái
Hoạ sỹ Văn Dương Thành (trái) và người sưu tập tranh của chị tại triển lãm "Hà Nội - Những cánh cổng cổ xưa" Ảnh: Lan AnhTrước kia, Bùi Xuân Phái có rất nhiều bức vẽ chân dung Văn Dương Thành. Nhưng ít người biết rằng, Văn Dương Thành cũng vẽ khá nhiều bức chân dung Bùi Xuân Phái.
Sau thành công của triển lãm mới đây tại Hà Nội Những cánh cổng cổ xưa, chị dự định sang năm sẽ về Việt Nam triển lãm chân dung người thầy của mình.
Không giống một lữ khách, mỗi lần về Hà Nội, Văn Dương Thành, hoạ sỹ Việt kiều nổi tiếng ở Bắc Âu, lại chúi đầu vào... vẽ. Chị vẽ không ngừng nghỉ, vẽ suốt ngày đêm.
Hai tuần trở về Hà Nội tháng 6 vừa qua là hai tuần làm việc cật lực để có thể ra mắt triển lãm Hà Nội- Những cánh cổng cổ xưa kéo dài từ 4/7 đến 14/7.
Tuổi thơ của Văn Dương Thành gắn bó với Hà Nội, với người cha, một nhà giáo, một nhà chính trị, người đã để dành từng đồng lương ít ỏi để mua giấy bút và một cây violin cho các con tập vẽ và học nhạc trong khi còn thiếu ăn từng bữa.
Chính vì vậy, trong tranh của Văn Dương Thành, dường như có nhạc, nhất là những bức tranh vẽ về thiên nhiên.
Từng thời kỳ, Văn Dương Thành vẽ trong nhạc hoà tấu của Kitaro (Nhật Bản) hoặc trong những bản giao hưởng của Bach (Đức) hay Tchaicopsky (Nga), Chopin (Ba Lan). Âm nhạc giúp Văn Dương Thành thiền, thoát ra khỏi mọi lo toan của cuộc sống để đi vào sự thanh thoát tĩnh lặng và viễn du với sắc màu.
Đối với Văn Dương Thành, những tòa kiến trúc, những cánh cổng nặng nề vững chãi như đưa Thành về lại hoài niệm xưa. Chúng biểu tượng cho người cha đầy nghị lực, sẵn sàng che chở dìu dắt các con.
Còn thiên nhiên, cây lá, hoa cỏ lộng lẫy toả hương quanh các cánh cổng xưa thì tượng trưng cho người mẹ, người chỉ biết hy sinh, dâng tặng, chỉ cho mà không có nhận. Tất cả được thể hiện qua: Ô Quan Chưởng mùa xuân, Nhà nhỏ bên tháp Ngọc Sơn, Hoa chuối và cổng cổ...
Nghe nói sang năm chị sẽ về tổ chức một triển lãm chân dung hoạ sỹ bậc thầy Bùi Xuân Phái?
Nói đến danh hoạ Bùi Xuân Phái, người ta nhớ ngay đến tranh Phố Phái, nhưng ông còn là một hoạ sỹ vẽ chân dung bậc thày. Ông đã vẽ hàng ngàn bức chân dung về gia đình và bạn bè.
Ngày trước, Bùi Xuân Phái và Văn Dương Thành thường vẽ chân dung lẫn nhau. Ít người biết rằng Văn Dương Thành cũng đã vẽ trực tiếp vài chục chân dung Bùi Xuân Phái. Ngày nay, tôi vẫn tiếp tục vẽ chân dung Bùi Xuân Phái, nhưng là vẽ theo hồi ức...
Sẽ không hay nếu nói trước việc mình chưa làm. Nhưng tôi đang ấp ủ dự định này. Có những bức tôi vẽ bác Phái cách đây mấy chục năm rồi, bây giờ muốn vẽ tiếp để tặng cho gia đình bác.
Hiện nay tôi đã viết xong một phần của cuốn sách về cuộc đời của Bùi Xuân Phái bằng tiếng Anh và đã được xuất bản tại Na Uy.
Vẽ tranh là một công việc không chỉ cần tới tài năng, mà còn cần tới sức khoẻ, đúng không thưa hoạ sỹ?
Tác phẩm "Hoa chuối" của hoạ sỹ Văn Dương Thành
Người xem đến phòng tranh, nhìn bức vẽ dưới ánh đèn lung linh, họ đâu có biết rằng, đằng sau những bức vẽ đó là một lao động cực kỳ gian khổ.
Việc vẽ những bức tranh hơn 1m hoặc 2m đối với một phụ nữ quả là một lao động nặng nhọc, cả chân tay lẫn đầu óc.
Không chỉ ghi chép, lấy tài liệu, lấy cảm xúc, chắt lọc và vẽ... đã là xong, người hoạ sỹ còn phải “ mặc áo” cho nó, tức là thiết kế khung tranh, ánh sáng ...
Cho dù khó khăn đến mấy, tôi vẫn quyết thực hiện ý định của mình đến cùng.
Chính vì sự cực nhọc của nghề vẽ mà số lượng nữ hoạ sỹ ở nước ngoài không nhiều?
Đúng vậy.Ở Việt Nam có nhiều nữ hoạ sỹ hơn và tâm huyết hơn. Còn ở nước ngoài, nữ hoạ sỹ ít hơn rất nhiều so với nam.
Có những bức tranh của chị được bán với giá vài ngàn euro. Đó là cái giá cao hay thấp?
Tôi không muốn nói tới chuyện tiền bạc, vì rất sợ làm méo mó chuyên môn. Bởi giá tranh thì vô cùng và nó cũng không phản ánh giá trị thực của bức tranh. Một bức tranh vẽ đôi khi được trả giá chưa bằng một bức tranh chép.
Ngay cả tranh của Picasso thời gian đầu, bán không ai mua. Khi ông nổi tiếng rồi, giá tranh mới lên cao vùn vụt.
Ở Việt Nam, một bức tranh chép cũng có thể bán tới 5000 đô la, nhưng cũng có bức cũng chỉ mấy trăm đô la.
Tôi có thể khẳng định được rằng, ở Thuỵ Điển, tôi sống được bằng nghề của mình.
Tranh chép giữa ngõ... tác quyền
Người Sài Gòn khá giả bây giờ bắt đầu nghĩ đến những bức tranh bởi nó vừa trang trí đẹp nhà lại vừa thể hiện được "gu" nghệ thuật của gia chủ. Thế nhưng để sở hữu một bức tranh nguyên tác của một họa sĩ (dù không nổi tiếng) cũng phải có túi tiền kha khá và biết cách tìm tòi. Thế là người ta đua nhau chép tranh, mua tranh chép...
Phố tranh của... "Ta"
Người Sài Gòn gọi đường Nguyễn Văn Trỗi là "phố tranh". Sau lần giải tỏa, mở rộng, các cửa hàng dọc hai bên khang trang, sạch đẹp và thu hút khách hơn. Ở đây có đủ tranh của Thành Chương, Lê Thiết Cương, Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Đỗ Khắc Cung, Đào Hải Phong, cho đến họa sĩ kinh điển nước ngoài như Van Gogh, Picasso...
Người mua chỉ cần đưa ra yêu cầu là có ngay một bức tranh chép lại mà chẳng cần có sự cho phép của tác giả. Thậm chí, nhìn sơ màu sắc tranh chép ấy còn sống động hơn tranh gốc. Chủ mỗi cửa hàng ở đây cũng là họa sĩ và cũng có tranh bán kèm nhưng thường không chạy.
Tư duy kinh doanh tranh chép đơn giản đến mức một họa sĩ trẻ phải thốt lên: "Người ta mua tranh chép chỉ đơn giản vì nhu cầu trang trí nhà, chớ ai hơi đâu để ý đến giá trị nghệ thuật..."!
Thực tế cho thấy, thị trường Mỹ thuật Việt Nam dù ra đời sớm nhất trong các ngành nghệ thuật nhưng lại chậm được pháp luật bảo vệ. Các quy định về xử phạt hành chính với việc vi phạm bản quyền mỹ thuật, chép tranh, nhái tranh chưa thật hiện hữu.
Họa sĩ Đào Hải Phong một lần đi dạo trên hè phố ở Hong kong trong chuyến du lịch đã tận mắt thấy một "thợ chép" đang say sưa nhái tranh của mình. Về tới Việt Nam, gặp bạn bè, ông còn đùa: "Đâu phải chỉ có mình chép tranh của Tây, Tây cũng chép của Ta đó thôi!". Nhưng tận trong đáy lòng, ông thấy đau cho "đứa con" tinh thần của mình.
Chính vì được chép thoải mái nên đến bất cứ cửa hàng nào trong phố tranh, khách hàng cũng được giới thiệu "công khai" về nguồn gốc... Người bán hàng tại phố tranh chỉ cho người mua cách phân biệt, tranh chép không có chữ ký của tác giả ở phía dưới, cũng không có dòng chữ "đã chép của ai...". Nhiều phòng tranh ở đây còn kiêm luôn cả vẽ chân dung, trang trí nội thất, thiết kế đồ họa... Mỗi cửa hàng đều có một đội ngũ thợ chuyên chép tranh. Họ không phải là những họa sĩ chuyên nghiệp, không có "máu giang hồ" và sự bụi bặm thường thấy ở giới hoạt động nghệ thuật.
Phần đông người chép là sinh viên mỹ thuật làm thêm. Người vẽ lại quan trọng nhất là kỹ thuật bắt chước. Những yếu tố màu sắc, hình khối, bố cục không quan trọng, miễn sao giống y chang là được.
Những "thợ" chép chuyên nghiệp thì thuận lợi hơn. Tuy chẳng học qua trường lớp nào, nhưng chép nhiều rồi cũng quen tay. Họ luôn có mặt 24/24 để khi khách mang mẫu đến hoặc cần gấp là "chép" ngay tại chỗ. Thù lao của người chép tranh được tính bằng độ khó hay dễ của bức tranh và thời gian hoàn thành sản phẩm.
Ngoài tranh bằng chất liệu sơn mài, phố tranh Nguyễn Văn Trỗi còn có tranh chép bằng... đá quý. Đá được nghiền nhỏ, họa sĩ chỉ cần phun lên vải một lớp keo chuyên dụng sau đó phối màu theo đúng bức tranh gốc và lồng vào khung gỗ. Như chính tên gọi, giá trị mỗi bức tranh đá quý thường gấp 3, 4 lần tranh chép thường.
Và... tranh chép ở "phố Tây"
Những Gallery hay cửa hàng tranh trên đường Nguyễn Huệ và đặc biệt ở đường Bùi Viện, Q.1 lại chuyên bán cho các đối tượng khách du lịch nước ngoài - gọi là phố tranh Tây. Phố tranh Tây ẩn khuất ngay dưới những nhà nghỉ, khách sạn hiện đại. Không rầm rộ như trên đường Nguyễn Văn Trỗi, số lượng cửa hàng và họa sĩ cũng ít hơn, nhưng "thợ chép" ở đây chuyên nghiệp hơn.
Họa sĩ Toàn, chủ phòng tranh Nguyễn, số 155A Bùi Viện, nói vui: "Ở phố Tây, tranh chép cũng phải Tây Tây một chút mới bán được hàng". Cái Tây mà người họa sĩ này đề cập là tốc độ chép và xu hướng mua bán nhanh vì người nước ngoài ít khi mặc cả giá.
Đặc biệt khi chép xong "họa sĩ" không phải cho vào khung gỗ. Sau khi gỡ ra khỏi giá vẽ, tranh sẽ được khách Tây cho vào một ống nhựa để tiện cho việc di chuyển bằng máy bay. Hầu hết khách du lịch khi mua tranh như một món quà sau một lần đến Việt Nam, nên chủ đề cũng đơn giản.
Theo họa sĩ Xuân Chiếu (phòng tranh 102 Bùi Viện), một bức tranh chép cũng có nhiều cách để thưởng thức. Người thích màu sắc, người ưa bố cục, có người mua tranh chỉ vì thấy cái khung gỗ bên ngoài xinh xinh. Khách Tây cũng vậy, đôi khi thấy bức nào có vẻ Việt Nam thì mua, chứ không đòi hỏi cao hơn. Vì thế tranh về những vùng đất hay chân dung về người phụ nữ Việt bán chạy hơn. Nhiều khi đơn đặt hàng chỉ đơn thuần là chép lại một poster vừa mua được ở đâu đó của người bán dạo trên đường phố.
Tranh cho khách Tây không đòi hỏi quá cao về mỹ thuật vì không ít khách hàng là "Tây ba lô". Thế nhưng, giá cả lại được tính bằng đô nên chẳng may có khách Việt nào lỡ vào mua cũng phải chịu mức giá Tây ấy.
Thực tế cho thấy chép tranh đang là một nghề kinh doanh hái ra tiền ở các thành phố lớn. Bùi Xuân Phái là một trong những họa sĩ bị sao chép tranh nhiều nhất. Tình hình tệ hơn khi số lượng tranh giả của ông đã gấp nhiều lần tranh thật và có nguy cơ làm mất giá trị tranh thật. Cách tốt nhất là các họa sĩ nên tự cứu lấy mình trong hoàn cảnh này như giới âm nhạc là thành lập một trung tâm bảo hộ bản quyền.
(Theo SV)
Nghề chép tranh
Làm sao để tận mắt chiêm ngưỡng nụ cười huyền bí của nàng Mona Lisa khi bạn không thể lặn lội đến tận bảo tàng Louvre (Pháp)? Hãy tìm đến các nghệ nhân chép tranh, họ sẽ giúp bạn mang cả tác phẩm bất hủ này của Leonardo de Vinci về nhà.Cách đây khoảng 10 năm, ngành kinh doanh các tác phẩm hội họa như được hồi sinh và bùng nổ. Chỉ trong một thời gian ngắn, số lượng các gallery mọc lên như nấm sau mưa. Trong giai đoạn đó, nhiều người bảo rằng: “Không nghề gì giàu nhanh bằng nghề vẽ tranh bán cho Tây”.
Đến thời điểm hiện nay, lực lượng tìm đến mua tranh chép ở các gallery không chỉ là các khách hàng ngoại quốc nữa. Do mức sống ngày càng được cải thiện và nâng cao, ngày càng nhiều khách “nội” cũng đến các gallery để mua tranh với nhu cầu trang trí nội thất.
Với số tiền khiêm tốn, thậm chí ít tới mức ngạc nhiên, bạn có thể mua được một bức họa không chỉ của các danh họa Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, Đỗ Khắc Chung… mà còn cả của các danh họa lừng danh thế giới như Van Gohn, Picasso, Levitan… Tất nhiên, tất cả chỉ là phiên bản.
Họa sỹ, người là ai?
Hầu hết sinh viên các ngành mỹ thuật tìm đến công việc chép tranh như một cách tập luyện, rèn giũa cho ngòi bút của mình. Được tiếp cận với tác phẩm kinh điển của các danh họa hàng đầu thế giới, họ ít nhiều rút ra cho mình những bài học về cách phối màu, kỹ thuật, kỹ xảo trong việc sử dụng họa cụ, nâng cao cảm nhận nghệ thuật. Họ coi đó là những bài tập thực hành trước khi cầm cọ và sáng tác cho riêng mình như một nghệ sỹ thực sự.
Đồng thời, công việc này cũng đem đến cho họ một khoản thu nhập tuy không cao, nhưng cũng kha khá để đảm bảo cho cuộc sống đời sinh viên. Hầu hết các xưởng chép tranh đều hỗ trợ màu, bố trí sơn dầu và dụng cụ vẽ. Nghệ nhân chép tranh chỉ việc thu xếp thời gian và đến chép theo mẫu có sẵn do chủ gallery cung cấp - thường là qua bưu ảnh hoặc ảnh chụp tranh trong các sách mỹ thuật. Thù lao cho mỗi bức vẽ từ 50.000 đến 4-5 trăm nghìn đồng, tùy theo khổ tranh và mức độ khó, tay nghề của người chép tranh.
Không chỉ có các sinh viên, những người đã “mang danh” họa sỹ mới bước vào nghề cũng chọn việc chép tranh để làm bước đệm “lấy ngắn nuôi dài”, lấy… bánh mì nuôi lòng đam mê sáng tạo.
Nhiều họa sỹ có tài đã đi lên từ nghề này, nhưng cũng có nhiều người, do áp lực cuộc sống đã găn bó suốt đời với nghề chép tranh. Chép tranh, tích cóp tiền, mở gallery rồi lại chép tranh,…
Những dị bản tiêu cực
Chép tranh là một nghệ thuật đáng trân trọng, bởi người làm công việc này đòi hỏi phải có trình độ và tài năng. Tuy nhiên, sự chi phối của thu nhập đã làm nảy sinh nhiều “dị bản” của nghề, dẫn đến một thực trạng khá bừa bãi.
Trước một thị trường ngày càng rộng mở, lực lượng nghệ nhân chép tranh lý ra cũng theo đó mà mức thu nhập nâng cao hơn. Nhưng hiện nay đang tồn tại một thực tế là tay nghề của lực lượng chép tranh này ngày càng kém, số lượng tranh tăng tỉ lệ nghịch với chất lượng.
Ngày càng ít sinh viên Mỹ thuật tìm đến nghề này, các thợ chép kỳ cựu cũng đã toan về già. Song đội ngũ chép tranh lại có vẻ “xôm tụ” hơn vì có sự góp mặt của nhiều giới, nhiều vùng… Các gallery tranh nhau làm ẩu, hạ giá thành để tranh giành khách đã dẫn đến hậu quả là thị trường tranh chép vốn có sức hút bỗng trở nên lộn xộn, vàng thau lẫn lộn.
Hầu hết các gallery ở khu phố chuyên bán cho khách “Tây ba lô” luôn quan niệm khách mua rồi đi ngay nên chất lượng khá tệ. Nhiều tranh chép ở đây làm ẩu đến mức có khi chưa kịp bán thì màu đã nhạt hoặc loang lổ.
Một phòng tranh ở phố Hàng Khay chỉ rộng chừng 12-20m2 cho cả thợ vẽ chen chúc cùng đống tranh trưng bày. Khuất trong góc tường là hàng chục bức tranh xếp hàng chờ bán. Ngoài bản sao của các tác giả nổi tiếng, bản sao tranh của các họa sỹ đương đại trong nước cũng được chép lại khá chu đáo và khéo léo, thậm chí chép cả… chữ ký của tác giả - khéo đến nỗi chính tác giả cũng phân vân không phân biệt nổi đâu là con mình.
Rồi chẳng mấy lúc, con mình trở thành con người, những bức tranh chép lại được bán với giá “thật”, chẳng hề “bình dân” chút nào.
Đây thực sự là việc vi phạm bản quyền rất đáng lên án, làm cho nghề chép tranh xấu đi trong cái nhìn của xã hội. Một họa sỹ có thể sẽ phải thai nghén vài năm cho một tác phẩm trong khi thợ chép chỉ cần chưa đến một tuần đã có thể “sao y bản chính” bằng công nghệ copy hoàn chỉnh nhất.
Tệ hơn, một số tác giả trẻ khi nhận thấy tranh của mình bán được trên thị trường bèn nảy ra ý tưởng… “nhân bản” bức tranh đó ra vô số, gửi bán ở nhiều gallery khác nhau để kiếm lời, và “nhân thể” kiếm danh. Điều này tạo nên sự nghi ngại của khách hàng mỗi khi bước chân vào gallery.
Xây dựng thị trường tranh lành mạnh
Cũng như những nghề lương thiện khác, nghề chép tranh rất đáng được trân trọng. Họ làm ra sản phẩm cho xã hội từ chính sức lao động của mình, song sản phẩm đó có được xã hội chấp nhận hay không lại tùy thuộc vào lương tâm của người làm nghề.
Tuy nhiên, nên chăng trên mỗi phiên bản nên có ghi chú là sao chép (reproduction) của tác giả X,Y… nào đó để tôn trọng bản quyền của người sáng tác hơn là mạo danh của họ để bán được tranh.
Đã có những tranh cãi, những chuyện kiện tụng không hay xung quanh vấn đề này. Các cơ quan có chức năng cũng nên có một số quy định rõ ràng về việc này để tranh chép không quá lộn xộn như hiện nay, và tìm được đúng chỗ đứng của nó.(Theo Dân Trí)
Chép tranh – thật, giả khó lường!
Những tác phẩm như thế này thường được những người chơi tranh chép lại.
Cùng với chuyện bán tranh do chính mình vẽ, nhiều họa sĩ sáng tác đã phát hiện "đứa con" của mình bị “sao chép” một cách bí mật. Những bức tranh chép ấy được đưa ra bày bán khi thì công khai, lúc có vẻ bí mật.
Giờ đây, nghề sao chép tranh đang trở nên thịnh hành và có thu nhập đáng kể. Các tác giả đích thực phải mất từ vài tháng đến một năm mới hoàn thành một bức tranh, nhưng người sao chép có khi chỉ trong một tuần lễ là đã hoàn chỉnh, "xịn" đến mức người xem không thể nhận ra đâu là thật và đâu là giả… Nếu là tranh thuộc loại tài sản quốc gia (tác phẩm của Nguyễn Sáng, Nguyễn Phan Chánh, Trần Văn Cẩm, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, v.v…) thì họ chép ở nơi bí mật “cấm người lạ vào”. Hoặc các loại tranh nước ngoài như Van Gogh, Gouguin, Walt Disney… thì cứ thuê thợ chép ở các phòng vẽ, các gallery, v.v… Có thể kể các phòng tranh, các gallery tự do chép tranh như: N.A ở đường Đồng Khởi (Quận 1, TP.HCM), T.H, A.C, gallery B. , T.U.V … cũng trên con đường đông khách nước ngoài ấy. Còn các gallery N.Đ trên đường Điện Biên Phủ (Q.3), A.H và L. đường Trường Sơn (Q.10)… cũng ào ào “sáng tác” kiểu ấy.
Mỗi nghệ nhân chép tranh được trả thù lao một tác phẩm khuôn khổ 60x80cm không quá 300.000 đồng tiền Việt, nhưng khi chủ nhân bán ra cho khách phải thì giá được hét lên đến cả ngàn đô la Mỹ – quả là một khoảng cách… đáng nể!
Trong số các nghệ nhân làm riêng lẻ với các tác phẩm lớn, phải kể đến hai trong số các bậc “mét” trong nghề: N.T.L ở quận I và T.V.Y ở quận 10. Đây là hai nghệ nhân chép tranh có tầm cỡ, có khả năng tái hiện, phục chế một bức tranh cổ trên 50 năm. Họ vẽ và xông khói cho bức tranh trở màu cũ kỹ giống y như tác phẩm thật. Tác phẩm chép xong chỉ bán thẳng cho khách nên không ai có thể tìm ra được nguồn gốc của những bức tranh này.
Hiện nay, các tay chép tranh tập trung khai thác sản xuất số lượng tranh quá lớn của Bùi Xuân Phái đến đỗi giờ đây, khách mua nghe đến tranh của ông là lắc đầu nghi ngờ ngay lập tức. Có câu chuyện thật không biết nên cười hay nên khóc về tranh của Bùi Xuân Phái như sau: một vị khách Đài Loan tìm đến gallery của bà N. mua tranh “phố nhái” (đây là tranh thật 100%) sau khi mang về nước, một tháng sau vị khách này quay trở lại đòi hoàn tiền vì cho rằng đây là… tranh giả (!).
Họa sĩ Rừng và tác phẩm"Trên tầng thanh khí" do anh sáng tác.
Còn tranh của Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Tạ Ty, Thái Tuấn, Văn Đen… cũng không thoát khỏi tình trạng bị sao chép. Sao chép khéo đến nỗi có lẽ chính các tác giả, cũng không thể nào nhận ra được một bức nào cả. Và tất nhiên, không ai nghĩ đến việc trả bản quyền cho tác giả khi bán những bức tranh sao chép này.
Chép tranh là một nghệ thuật đáng trân trọng – bởi người làm công việc này đòi hỏi cần phải có một trình độ và tài năng. Tất nhiên, đối với những ai lạm dụng cái “danh” của tác giả để khai thác tận cùng, khai thác tràn ngập làm rối loạn chung nền nghệ thuật hội họa Việt Nam đang được thế giới chú ý là điều cần xem xét, bởi với một tác phẩm mà số bản lại quá nhiều, tranh nào cũng có chữ ký “như thật” của tác giả. Tại sao không ghi rõ là “sao chép” (Reproduction) lại của họa sĩ X hay họa sĩ Y nào đó, để người mua khỏi phải khó chịu khi mua?
Kết thúc đợt thanh tra các cơ sở sao chép tranh:
Một cửa hàng bán tranh chépQua đợt thanh tra đầu tiên về sao chép tác phẩm tạo hình trên toàn quốc, có thể thấy rằng dù Quy chế về hoạt động này đã được ban hành một năm, nhưng việc thực hiện nó thì còn xa vời lắm.
Những "kỷ lục" từ các cửa hàng chép tranh!
Theo kết quả thanh tra, đứng đầu bảng các họa sĩ VN (đã quá cố) bị "chép" tại các cửa hàng chép tranh (CHCT) ở Hà Nội là Bùi Xuân Phái. Sau đó là đến Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn...
Chiều ngày 14-7, đợt thanh tra các cơ sở sao chép tác phẩm tạo hình trên địa bàn toàn quốc (chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Huế, Hội An...) kéo dài trong gần 1 tháng đã kết thúc. Đây là lần thanh tra đầu tiên đúng một năm sau khi Quy chế sao chép tác phẩm tạo hình (Quy chế) được ban hành theo QĐ 17/2004 của Bộ Văn hóa - Thông tin.
Đợt thanh tra này do Đoàn thanh tra văn hóa ( Bộ TT-VH) phối hợp với Vụ Mỹ thuật tiến hành nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động sao chép tác phẩm tạo hình. Một hoạt động cách đây không lâu vẫn được coi là kinh doanh tự do, nằm ngoài sự kiểm xét của các cơ quan văn hoá với hơn 160 cơ sở tại TP Hồ Chí Minh. 118 cơ sở tại Hà Nội, làm "nhiễu" thị trường nghệ thuật hàng chục năm nay...Trong số tác phẩm của các họa sĩ quá cố, bức bị chép nhiều nhất là bức "Thiếu nữ bên hoa huệ" của Tô Ngọc Vân. Trừ Tô Ngọc Vân mất đã hơn 50 năm (ngoài thời hạn bảo hộ), còn lại hầu hết các tác giả kia vẫn còn trong thời hạn bảo hộ của Quy chế nêu trên, cũng có nghĩa là việc chép tranh không xin phép chủ sở hữu là vi phạm bản quyền.
Còn những họa sĩ vẫn "sống sờ sờ" bị chép tranh thì hàng đầu phải kể đến Đào Hải Phong, Thành Chương (miền bắc), Lê Thanh Sơn, Nguyễn Thanh Bình (miền nam)...
Một họa sĩ làm chuyên gia thẩm định cho đoàn thanh tra phải kêu lên: "Thật đáng thương cho Đào Hải Phong".
Rất dễ nhận ra tranh cóp của ba họa sĩ trung niên này: Tranh Đào Hải Phong thường vẽ một hai ngôi nhà với mấy lùm cây bằng mầu gốc lam, đỏ trắng, vàng ít trộn, trông ánh sáng rất cinema, xanh đỏ tưng bừng. Tranh của Thành Chương thường vẽ một hai con trâu cùng vài cậu bé mặt tròn lùn tịt vặn vẹo với hòa sắc lục vàng điểm đỏ cánh sen. Tranh của Nguyễn Thanh Bình vẽ mấy cô nữ sinh áo trắng mờ mịt trong hòa sắc nâu nhạt.
Những loại tranh này đại diện cho một khuynh hướng thẩm mỹ thị dân ưa cái gì đèm đẹp, xinh xinh, có tí đồng quê, có tí lãng mạn dễ coi, để trang trí ở đâu cũng tiện. Thế nên tranh thật đã bán rất chạy, tranh chép, tranh nhái của họ lại còn chạy hơn.
Tuy nhiên tay nghề thợ chép cũng còn lâu mới "gọi hồn" được tranh thật. Điều này tương xứng với giá tranh thật của ba tác giả trên cỡ hàng trăm (USD) trở lên, trong khi tranh chép giá chỉ vài trăm ngàn tiền Việt. Nhưng chép thì ít, mà nhái phong cách thì rất phổ biến.
Ở cửa hàng số 18 Nhà Chung (Hà Nội) có bày mấy bức tranh nhái hệt mầu và hình tranh của Thành Chương, nhưng ký tên dưới rất chĩnh chệ là Phạm Đức Nghĩa. Hầu hết các cửa hàng chép tranh trên tập trung trên phố Nguyễn Thái Học (Ba Đình), Hàng Trống, Hàng Bè (Hoàn Kiếm) đều có tranh nhái của mấy tác giả trên...
"Quy chế sao chép...": Bao giờ mới đi vào thực tiễn?
Tuy Quy chế đã ban hành và được thực hiện hơn một năm, nhưng đợt kiểm tra trên cho thấy rằng các chủ hàng hầu hết không hề biết đến nó. Không loại trừ có trường hợp "cố tình không hiểu", nhưng thực sự là khi cấp giấy phép kinh doanh, họ không hề được phổ biến, nhắc nhở chút gì về Quy chế (từ khi bỏ giấy phép hành nghề, những mặt hàng văn hóa phẩm này cũng nằm ngoài sự kiểm xét của ngành văn hóa).
Thậm chí ngay cả cán bộ văn hoá quận Hoàn Kiếm cũng rất lơ tơ mơ về quy chế này. Họ chống chế rằng việc này đâu có "nhức nhối" như các tệ nạn khác, trong khi còn bao nhiêu việc khác phải làm trong ngày...!
Tuy cùng là một hoạt động, nhưng việc sao chép tranh ở miền nam có vẻ có quy củ hơn miền bắc. Các chủ cửa hàng chép tranh trong TP.HCM đều trình ra giấy phép Đăng ký kinh doanh đàng hoàng ghi đăng ký kinh doanh ngành nghề "sao chép tranh".
Trong khi đó các cửa hàng tại Hà Nội chỉ đề trên Giấy phép kinh doanh là bán tranh, bán khung, bán đồ lưu niệm, thậm chí kết hợp cả bán tranh với... cho thuê phòng trọ! Tranh chép cũng không phải "hàng tươi", thường là do sinh viên mỹ thuật, các hoạ sĩ tầm tầm vẽ rồi ký gửi, khi bán được mới tính tiền.
Điều đó rất khó và phi thực tế đối với việc muốn chép một bức tranh "phải được sự đồng ý của chủ sở hữu tác phẩm bằng văn bản" (Điều 5, khoản 1 của Quy chế). Vì gởi bán một bức tranh vài trăm ngàn (không biết bao giờ mới bán được) không ai nghĩ đến việc phải tìm tác giả hoặc chủ sở hữu để xin phép cả. Thế nên dẫn đến tình trạng vi phạm quy chế là... 100%!
Văn bản dưới luật, còn quá chung chung!
Có hai vấn đề nổi cộm nữa trong khi thanh tra các cửa hàng chép tranh. Đó là việc tranh của hoạ sĩ nước ngoài (còn sống) bị chép ngang nhiên, trong khi VN đã tham gia Công ước Berne. Đó là trường hợp hoạ sĩ người Colombia Fernando Botero và các bức "tranh béo" của ông (hoạ sĩ này vẽ cái gì cũng béo tròn: người béo, chó mèo béo, ngựa béo, nàng Mona Lisa béo).
Hiện nay tình trạng tranh chép từ ảnh là vô cùng nhiều, và đó cũng là một biểu hiện vi phạm bản quyền (chuyển chất liệu). Trong khi đó, Quy chế không hề có dòng nào đề cập đến tình trạng này...
Việc các văn bản luật ban hành chậm hơn với thực tế là điều dễ hiểu. Nhưng "khó hiểu" hơn cả là một số văn bản dưới luật quy định chi tiết việc thực hiện các vấn đề bản quyền hiện nay còn quá chung chung và nhiều điểm trong đó là "phi thực tế". Điều đó dẫn đến tình trạng quy chế cứ ban ra, mà việc thực hiện rốt cuộc cũng chẳng đâu vào đâu.
Theo Thể thao và Văn hóa