Monday, January 29, 2007

Hội họa Việt Nam: Nhức nhối nạn tranh giả!

Trên thị trường tranh hiện nay, những danh họa hàng đầu Việt Nam như Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ .v.v không ai là không bị làm giả. Đau lòng hơn là có cả trường hợp chính con đẻ của những họa sĩ nêu trên cũng nhúng tay vào nạn tranh giả.
Mất cả triệu USD vì mua phải tranh giả tại Việt Nam
Gần đây, giới hội họa Việt Nam thật sự rúng động khi bức tranh Thiếu nữ trong vườn của họa sĩ Nguyễn Gia Trí được đăng quảng cáo trên tạp chí Mỹ thuật Châu Á Asian Art News. Họa sĩ Hồ Hữu Thủ chưng hửng: “Tôi sang Singapore thấy một bức như vậy trên sàn đấu giá, về Việt Nam lại thấy trên tạp chí đăng một bức khác...!, không biết thật giả là cái nào?”. Giới họa sĩ và những nhà sưu tập từng đến Singapore, Hong Kong... đều có chung nhận định là hiện nay thị trường tranh nước ngoài rất ngại tranh Việt Nam vì sợ mua phải đồ rởm, bởi vì những danh họa hàng đầu Việt Nam như Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Lê
Bức Thiếu nữ trong vườn của gallery Ðức Minh này được đăng quảng cáo trên tạp chí Asian Art NewsPhổ .v.v hiện nay không ai là không bị làm giả. Nếu nhìn vào giá chục, giá trăm ngàn USD của tranh các họa sĩ trên, cộng với sự thờ ơ của dư luận và một quy chế quản lý lỏng lẻo thì sẽ hiểu tại sao nạn tranh giả đang lũng đoạn thị trường tranh Việt Nam một cách có đường dây, có hệ thống một cách đáng báo động như hiện nay. Đánh vào tâm lý khách hàng là hay chọn tranh qua catalogue, những đối tượng làm tranh giả thường in những bức tranh giả lẫn lộn bên những bức tranh thật để đánh lừa những khách hàng kém may mắn của mình. Tranh giả có thể là phiên bản sao chép của các bức họa nổi tiếng, hoặc có thể là những đối tượng làm tranh giả mua những phác họa của những họa sĩ nổi tiếng đã quá cố từ người nhà của họ rồi làm thành tranh mới nhưng ký tên như một sáng tác thật của họa sĩ đã mất. Người quá cố bị làm giả là vậy, còn một số họa sĩ vẽ không kịp bán hiện nay cũng sẵn sàng thuê người khác vẽ theo phong cách mình rồi chỉ việc ký tên mình để kịp giao hàng theo kiểu mà PGS TS Nguyễn Đỗ Bảo gọi là “bán chữ ký ăn tiền”. Cho nên, có vị khách Hàn Quốc bỏ gần 1 triệu USD để mua tranh Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái... nhưng khi biết là tranh giả ông gần như ngất xỉu, còn những kẻ đã lừa ông thì chắc cả đời chỉ mong được một vố như vậy! Một vị khách nước ngoài khác mua tranh của hai họa sĩ nổi tiếng Việt Nam, nhưng khi nhờ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam giám định thì bà mới té ngửa là tranh giả. Trong đó, có một bức bà mua từ chính tay người con đẻ của họa sĩ mà bà mến mộ và ngỡ là mình đã mua được tranh thật của ông (!).
Ông Nguyễn Thanh Châu – Tổng thư ký Hội MT TP HCM: Pháp luật quy định việc sao chép tranh không phải là hoàn toàn nghiêm cấm. Nhưng nếu sao chép thì tranh chép phải khác chất liệu tác phẩm gốc, còn nếu cùng chất liệu thì phải có kích thước lớn hơn hoặc nhỏ hơn tác phẩm gốc và phải ghi rõ tên người sao chép ở phía bên phải của tranh...
PGS TS Nguyễn Đỗ Bảo: Nạn sao chép tranh phát triển, người nước ngoài sẽ ngại mua tranh Việt Nam vì nỗi ám ảnh sợ mua phải đồ rởm, thị trường tranh Việt Nam vừa mới nhen nhúm vì thế mà sẽ bị dìm xuống ngay. Cho nên, Bộ VH – TT cần biết rằng muốn “dập” nạn sao chép tranh thì đối tượng phải quản lý không phải là họa sĩ mà là các gallery, vì nạn sao chép tranh xuất phát từ các gallery – khâu trung gian giữa họa sĩ và thị trường.Khoảng thời gian năm 1997, có một số họa sĩ mượn tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng từ người sở hữu tranh nói là để chép lại, nhưng khi tranh trả về cho chủ thì trên thị trường Hong Kong cũng xuất hiện những bức tranh nhái tương tự. Vụ việc được phơi bày trên mặt báo, các bên thưa nhau ra tòa với lời giải thích của người mượn tranh là chỉ chép để... học tập (?). Những trường hợp khác được ông Nguyễn Thanh Châu – Tổng thư ký Hội Mỹ thuật TP HCM cho biết: “Chuyện làm tranh giả Hội chúng tôi đã đề cập nhiều, thậm chí đã phát hiện, đã điểm chỉ, nhưng rồi phát biểu thì chẳng thấy ai nghe, nên cuối cùng rồi cũng đâu vào đó...”. Sự bỏ ngõ đó, theo ông Nguyễn Thanh Châu là do dư luận còn thờ ơ với việc làm tranh giả, còn phần quản lý thì quy định có đó, nhưng để tìm cơ quan thực thi thì không biết gọi ai. Sự thờ ơ của dư luận một phần là do khách hàng mua tranh phần lớn là người nước ngoài, nên khi biết tranh giả thì họ chỉ biết đem đến bảo tàng nhờ... giám định (!), hoặc là đành gạt nước mắt ôm quả lừa trở về cố quốc. Giới am hiểu hội họa hiểu rằng một tranh của Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí .v.v được bán ra hiện nay hầu hết là tranh chép, tranh giả, còn những bức thật nếu lọt vào tay những đối tượng làm tranh giả thì họ sẽ giấu kỹ đến mức bưng bít, phong tỏa mọi băng hình, tư liệu hình ảnh... nên có nghi ngờ tranh giả thì việc tìm bản gốc để đối chiếu cũng là điều hết sức khó khăn.
“Muốn chấn chỉnh nạn sao chép tranh, Bộ VH – TT phải quản lý một cách toàn diện và có những biện pháp nghiêm túc hơn. Đặc biệt, cần có sự phối hợp nhiều bên: Công an văn hóa, quản lý thuế .v.v chứ một mình Bộ làm là chưa chắc đã được việc. Một vài quy chế, quy định cũng không ăn thua gì !” – có thể xem phát biểu trên đây của PGS TS Nguyễn Đỗ Bảo – Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Hà Nội như một lời kiến nghị đến các cơ quan chức năng nhằm mau chóng kiểm soát nạn
... và đây cũng là một bức tương tự của nhà sưu tập tranh Trần Hậu Tuấn. Vậy đâu là Thiếu nữ trong vườn thật của cố họa sĩ Nguyễn Gia Trí? (Ảnh: Ngọc Thạch)tranh giả, đưa mỹ thuật Việt Nam trở lại đời sống lành mạnh. Bởi vì Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ .v.v là những họa sĩ tài hoa hết đời hiến thân cho nghệ thuật và là những người tiên phong đóng góp những viên gạch đầu tiên cho nền hội họa Việt Nam. Nhưng giờ đây, họ đang bị những kẻ làm tranh giả kinh doanh trên tên tuổi, biến tên tuổi họ thành trò lừa đảo; không những làm tổn hại đến uy tín và tài năng của những họa sĩ quá cố mà thị trường tranh Việt Nam vừa mới nhen nhúm trong thời gian trở lại đây cũng đang bị những đối tượng làm tranh giả làm cho lắt lay, yểu mệnh.
Ông Hoàng Đức Toàn – Vụ trưởng Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh Việt Nam: “Làm tranh giả là một việc làm phi pháp phải bị lên án, xử phạt và truy tố!”

Hoạt động sao chép tranh, làm tranh giả đang diễn ra nhức nhối đã đặt ra vấn đề quản lý đối với các cơ quan chức năng. Nhân đây, chúng tôi có cuộc phỏng vấn với ông Hoàng Đức Toàn – Vụ trưởng Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh về vấn đề này.

- Thưa ông Hoàng Đức Toàn, ông đánh giá thế nào về tác hại của nạn sao chép tranh giả?
- Sao chép tác phẩm tạo hình mà không được sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm là một việc làm phi pháp phải bị lên án, xử phạt và truy tố. Chính sự sao chép tranh không đúng quy định làm lẫn lộn giữa thật và giả đã làm giảm lòng tin củangười mua, làm xấu đi những ấn tượng tốt đẹp về mỹ thuật Việt Nam với bạn bè quốc tế. Chúng tôi mong rằng với sự hợp tác của các cơ quan báo chí, sự phối hợp các cơ quan chức năng sẽ làm lành mạnh hoạt động sao chép tác phẩm tạo hình.
- Nhưng sự quản lý của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực này còn tương đối lỏng lẻo, thưa ông?
Về việc này lãnh đạo Bộ VH - TT đã chỉ đạo Vụ Mỹ thuật – Nhiếp ảnh xây dựng Quy chế sao chép tác phẩm tạo hình. Chúng tôi đã soạn thảo, tổ chức hội thảo, tổ chức nhiều cuộc họp lấy ý kiến các cơ quan như Cục bản quyền tác giả VHNT, Hội MTVN, các Sở VHTT, Hội VHNT các tỉnh, thành phố cùng các tổ chức, cá nhân hành nghề sao chép tranh.v.v. Quy chế đã được góp ý, sửa chữa 12 lần và sắp tới Vụ Mỹ thuật – Nhiếp ảnh sẽ trình Bộ trưởng Bộ VH - TT ký quyết định ban hành nhằm tạo một hành lang pháp lý để những đối tượng hành nghề sao chép tranh hoạt động đúng pháp luật, bảo vệ quyền tác giả và là cũng đồng thời bảo vệ quyền lợi những người

Chơi tranh

Theo một họa sỹ, thú chơi tranh của người Việt hiện nay có vấn đề, họ chạy theo thời thượng, thích mua những bức tranh nổi tiếng được chép lại hoặc sản xuất hàng loạt.
Đến các gallery trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Đề Thám, Đồng Khởi, Lý Chính Thắng, v.v..., ở TPHCM, dễ dàng nhận thấy những phiên bản các tác phẩm điển phạm – nổi tiếng, từ cổ điển đến hiện đại, rồi đương đại.
Mona Lisa của Leonardo Da Vinci có lẽ là tác phẩm được nhiều người biết đến nhất, và cũng dễ nhìn thấy ở các gallery này, giá có thể vài trăm nghìn đến vài triệu, tùy kích cỡ và công phu của người chép. Vì không có hiểu biết cơ bản về lịch sử nên họ tìm đến những tác giả nổi tiếng là điều tất nhiên.
Những thông tin rộng rãi về tác giả này đủ để họ lấy làm kiến thức, hiểu biết và tự hào, khi có một bức tranh (dù chép thôi) treo trong nhà.
Vì gu thẩm mỹ thấp, đa số sẵn sàng bỏ tiền ra mua một bức tranh chép, có khi giá còn cao hơn những tác phẩm của họa sĩ độc lập khác.
Đi mua một bức tranh chép của Lê Phổ, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Phan Chánh, v.v..., rồi so giá của các ngân hàng khác, sẽ biết được điều này.
Nhiều họa sĩ đương thời muốn sống được hoặc nhái phong cách, hoặc sản xuất hàng loạt nếu tranh của mình bán được. Trường hợp của Đỗ Quang Em, Hoàng Chương, Nguyễn Thanh Bình, Trương Tuấn Kiệt, v.v..., là ví dụ.
Tại sao chuộng tranh giả, tranh chép
Một, vì sự giáo dục và định hướng thẩm mỹ của ta còn sơ sài, chưa được cập nhật, chưa giúp người chơi tranh làm chủ được quan điểm của mình.
Hai, thị trường tranh giả, tranh nhái tràn lan, để tìm mua một bức tranh thật, có chất lượng thật khó. Giá tranh của thị trường Việt Nam trong những năm qua bị trượt dài là do điều này.
Trường hợp của Bùi Xuân Phái là ví dụ dễ thấy nhất. Các nhà sưu tập và cả người giữ bản quyền cũng không thể phân biệt được đâu là tranh thật, giả, nên cách tốt nhất là thôi không mua hoặc hạ giá mua xuống mức thấp nhất.
Ba, tranh giả, tranh chép dễ chơi, vì nó là tác phẩm hoặc tác giả phải nỗ lực tìm hiểu nhiều. Tranh giả, tranh chép cũng dễ chịu hơn, nếu có giá cao cũng yên tâm bởi tiếng tăm của tác phẩm bão lãnh, không phải phập phồng như mua tác phẩm mới.
Trong các cuộc đấu giá tranh ở khu vực Hong Kong, Singapore, Ma Cao, Thượng Hải, Indonesia, Hàn Quốc, v.v..., giá tranh (code) của Việt Nam thường bét nhất.
Theo nhiều giám tuyển nghệ thuật (curator), không phải các họa sĩ và tác phẩm Việt Nam thiếu đẳng cấp, do thị trường tranh khó kiểm soát, những họa sĩ thế kỷ 20 bị giả nhan nhản, không cách nào phát hiện ra được. Những họa sĩ đương thời thì làm photocopy.
Tại Indonesia, những họa sĩ đương đại của họ có thể bán bức tranh với giá trên 100.000 USD, thậm chí 250.000 USD, thông qua các cuộc đấu giá.
Còn các họa sĩ danh giá nhất Việt Nam đương thời, cũng chỉ ì ạch ở mức giá dưới 20.000 USD, mà rất ít khi bán được.
Họa sĩ Hồ Hữu Thủ, một tác giả thường có tranh trong các cuộc đấu giá khu vực, tâm sự: “Đừng để người chơi tranh, vốn lương thiện và khao khát tìm hiểu cái đẹp, lại bị lừa tới hai lần. Một, thói quen mua sắm chung của xã hội. Hai, bị vọng ngoại, chỉ tin vào các tác phẩm ngoại quốc”.
Theo Thể Thao&Văn Hóa

Nữ hoạ sỹ Việt kiều vẽ chân dung Bùi Xuân Phái

TPO - Đối với nữ họa sỹ Việt kiều Văn Dương Thành, danh hoạ Bùi Xuân Phái không chỉ là người thày, mà còn là một người bạn thân thiết, một người chú, người bác.
Hoạ sỹ Văn Dương Thành (trái) và người sưu tập tranh của chị tại triển lãm "Hà Nội - Những cánh cổng cổ xưa" Ảnh: Lan AnhTrước kia, Bùi Xuân Phái có rất nhiều bức vẽ chân dung Văn Dương Thành. Nhưng ít người biết rằng, Văn Dương Thành cũng vẽ khá nhiều bức chân dung Bùi Xuân Phái.
Sau thành công của triển lãm mới đây tại Hà Nội Những cánh cổng cổ xưa, chị dự định sang năm sẽ về Việt Nam triển lãm chân dung người thầy của mình.
Không giống một lữ khách, mỗi lần về Hà Nội, Văn Dương Thành, hoạ sỹ Việt kiều nổi tiếng ở Bắc Âu, lại chúi đầu vào... vẽ. Chị vẽ không ngừng nghỉ, vẽ suốt ngày đêm.
Hai tuần trở về Hà Nội tháng 6 vừa qua là hai tuần làm việc cật lực để có thể ra mắt triển lãm Hà Nội- Những cánh cổng cổ xưa kéo dài từ 4/7 đến 14/7.
Tuổi thơ của Văn Dương Thành gắn bó với Hà Nội, với người cha, một nhà giáo, một nhà chính trị, người đã để dành từng đồng lương ít ỏi để mua giấy bút và một cây violin cho các con tập vẽ và học nhạc trong khi còn thiếu ăn từng bữa.
Chính vì vậy, trong tranh của Văn Dương Thành, dường như có nhạc, nhất là những bức tranh vẽ về thiên nhiên.
Từng thời kỳ, Văn Dương Thành vẽ trong nhạc hoà tấu của Kitaro (Nhật Bản) hoặc trong những bản giao hưởng của Bach (Đức) hay Tchaicopsky (Nga), Chopin (Ba Lan). Âm nhạc giúp Văn Dương Thành thiền, thoát ra khỏi mọi lo toan của cuộc sống để đi vào sự thanh thoát tĩnh lặng và viễn du với sắc màu.
Đối với Văn Dương Thành, những tòa kiến trúc, những cánh cổng nặng nề vững chãi như đưa Thành về lại hoài niệm xưa. Chúng biểu tượng cho người cha đầy nghị lực, sẵn sàng che chở dìu dắt các con.
Còn thiên nhiên, cây lá, hoa cỏ lộng lẫy toả hương quanh các cánh cổng xưa thì tượng trưng cho người mẹ, người chỉ biết hy sinh, dâng tặng, chỉ cho mà không có nhận. Tất cả được thể hiện qua: Ô Quan Chưởng mùa xuân, Nhà nhỏ bên tháp Ngọc Sơn, Hoa chuối và cổng cổ...
Nghe nói sang năm chị sẽ về tổ chức một triển lãm chân dung hoạ sỹ bậc thầy Bùi Xuân Phái?
Nói đến danh hoạ Bùi Xuân Phái, người ta nhớ ngay đến tranh Phố Phái, nhưng ông còn là một hoạ sỹ vẽ chân dung bậc thày. Ông đã vẽ hàng ngàn bức chân dung về gia đình và bạn bè.
Ngày trước, Bùi Xuân Phái và Văn Dương Thành thường vẽ chân dung lẫn nhau. Ít người biết rằng Văn Dương Thành cũng đã vẽ trực tiếp vài chục chân dung Bùi Xuân Phái. Ngày nay, tôi vẫn tiếp tục vẽ chân dung Bùi Xuân Phái, nhưng là vẽ theo hồi ức...
Sẽ không hay nếu nói trước việc mình chưa làm. Nhưng tôi đang ấp ủ dự định này. Có những bức tôi vẽ bác Phái cách đây mấy chục năm rồi, bây giờ muốn vẽ tiếp để tặng cho gia đình bác.
Hiện nay tôi đã viết xong một phần của cuốn sách về cuộc đời của Bùi Xuân Phái bằng tiếng Anh và đã được xuất bản tại Na Uy.
Vẽ tranh là một công việc không chỉ cần tới tài năng, mà còn cần tới sức khoẻ, đúng không thưa hoạ sỹ?
Tác phẩm "Hoa chuối" của hoạ sỹ Văn Dương Thành
Người xem đến phòng tranh, nhìn bức vẽ dưới ánh đèn lung linh, họ đâu có biết rằng, đằng sau những bức vẽ đó là một lao động cực kỳ gian khổ.
Việc vẽ những bức tranh hơn 1m hoặc 2m đối với một phụ nữ quả là một lao động nặng nhọc, cả chân tay lẫn đầu óc.
Không chỉ ghi chép, lấy tài liệu, lấy cảm xúc, chắt lọc và vẽ... đã là xong, người hoạ sỹ còn phải “ mặc áo” cho nó, tức là thiết kế khung tranh, ánh sáng ...
Cho dù khó khăn đến mấy, tôi vẫn quyết thực hiện ý định của mình đến cùng.
Chính vì sự cực nhọc của nghề vẽ mà số lượng nữ hoạ sỹ ở nước ngoài không nhiều?
Đúng vậy.Ở Việt Nam có nhiều nữ hoạ sỹ hơn và tâm huyết hơn. Còn ở nước ngoài, nữ hoạ sỹ ít hơn rất nhiều so với nam.
Có những bức tranh của chị được bán với giá vài ngàn euro. Đó là cái giá cao hay thấp?
Tôi không muốn nói tới chuyện tiền bạc, vì rất sợ làm méo mó chuyên môn. Bởi giá tranh thì vô cùng và nó cũng không phản ánh giá trị thực của bức tranh. Một bức tranh vẽ đôi khi được trả giá chưa bằng một bức tranh chép.
Ngay cả tranh của Picasso thời gian đầu, bán không ai mua. Khi ông nổi tiếng rồi, giá tranh mới lên cao vùn vụt.
Ở Việt Nam, một bức tranh chép cũng có thể bán tới 5000 đô la, nhưng cũng có bức cũng chỉ mấy trăm đô la.
Tôi có thể khẳng định được rằng, ở Thuỵ Điển, tôi sống được bằng nghề của mình.

Tranh chép giữa ngõ... tác quyền

Tranh chép được bày bán tràn lan.
Người Sài Gòn khá giả bây giờ bắt đầu nghĩ đến những bức tranh bởi nó vừa trang trí đẹp nhà lại vừa thể hiện được "gu" nghệ thuật của gia chủ. Thế nhưng để sở hữu một bức tranh nguyên tác của một họa sĩ (dù không nổi tiếng) cũng phải có túi tiền kha khá và biết cách tìm tòi. Thế là người ta đua nhau chép tranh, mua tranh chép...
Phố tranh của... "Ta"
Người Sài Gòn gọi đường Nguyễn Văn Trỗi là "phố tranh". Sau lần giải tỏa, mở rộng, các cửa hàng dọc hai bên khang trang, sạch đẹp và thu hút khách hơn. Ở đây có đủ tranh của Thành Chương, Lê Thiết Cương, Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Đỗ Khắc Cung, Đào Hải Phong, cho đến họa sĩ kinh điển nước ngoài như Van Gogh, Picasso...
Người mua chỉ cần đưa ra yêu cầu là có ngay một bức tranh chép lại mà chẳng cần có sự cho phép của tác giả. Thậm chí, nhìn sơ màu sắc tranh chép ấy còn sống động hơn tranh gốc. Chủ mỗi cửa hàng ở đây cũng là họa sĩ và cũng có tranh bán kèm nhưng thường không chạy.
Tư duy kinh doanh tranh chép đơn giản đến mức một họa sĩ trẻ phải thốt lên: "Người ta mua tranh chép chỉ đơn giản vì nhu cầu trang trí nhà, chớ ai hơi đâu để ý đến giá trị nghệ thuật..."!
Thực tế cho thấy, thị trường Mỹ thuật Việt Nam dù ra đời sớm nhất trong các ngành nghệ thuật nhưng lại chậm được pháp luật bảo vệ. Các quy định về xử phạt hành chính với việc vi phạm bản quyền mỹ thuật, chép tranh, nhái tranh chưa thật hiện hữu.
Họa sĩ Đào Hải Phong một lần đi dạo trên hè phố ở Hong kong trong chuyến du lịch đã tận mắt thấy một "thợ chép" đang say sưa nhái tranh của mình. Về tới Việt Nam, gặp bạn bè, ông còn đùa: "Đâu phải chỉ có mình chép tranh của Tây, Tây cũng chép của Ta đó thôi!". Nhưng tận trong đáy lòng, ông thấy đau cho "đứa con" tinh thần của mình.
Chính vì được chép thoải mái nên đến bất cứ cửa hàng nào trong phố tranh, khách hàng cũng được giới thiệu "công khai" về nguồn gốc... Người bán hàng tại phố tranh chỉ cho người mua cách phân biệt, tranh chép không có chữ ký của tác giả ở phía dưới, cũng không có dòng chữ "đã chép của ai...". Nhiều phòng tranh ở đây còn kiêm luôn cả vẽ chân dung, trang trí nội thất, thiết kế đồ họa... Mỗi cửa hàng đều có một đội ngũ thợ chuyên chép tranh. Họ không phải là những họa sĩ chuyên nghiệp, không có "máu giang hồ" và sự bụi bặm thường thấy ở giới hoạt động nghệ thuật.
Phần đông người chép là sinh viên mỹ thuật làm thêm. Người vẽ lại quan trọng nhất là kỹ thuật bắt chước. Những yếu tố màu sắc, hình khối, bố cục không quan trọng, miễn sao giống y chang là được.
Những "thợ" chép chuyên nghiệp thì thuận lợi hơn. Tuy chẳng học qua trường lớp nào, nhưng chép nhiều rồi cũng quen tay. Họ luôn có mặt 24/24 để khi khách mang mẫu đến hoặc cần gấp là "chép" ngay tại chỗ. Thù lao của người chép tranh được tính bằng độ khó hay dễ của bức tranh và thời gian hoàn thành sản phẩm.
Ngoài tranh bằng chất liệu sơn mài, phố tranh Nguyễn Văn Trỗi còn có tranh chép bằng... đá quý. Đá được nghiền nhỏ, họa sĩ chỉ cần phun lên vải một lớp keo chuyên dụng sau đó phối màu theo đúng bức tranh gốc và lồng vào khung gỗ. Như chính tên gọi, giá trị mỗi bức tranh đá quý thường gấp 3, 4 lần tranh chép thường.
Và... tranh chép ở "phố Tây"
Những Gallery hay cửa hàng tranh trên đường Nguyễn Huệ và đặc biệt ở đường Bùi Viện, Q.1 lại chuyên bán cho các đối tượng khách du lịch nước ngoài - gọi là phố tranh Tây. Phố tranh Tây ẩn khuất ngay dưới những nhà nghỉ, khách sạn hiện đại. Không rầm rộ như trên đường Nguyễn Văn Trỗi, số lượng cửa hàng và họa sĩ cũng ít hơn, nhưng "thợ chép" ở đây chuyên nghiệp hơn.
Họa sĩ Toàn, chủ phòng tranh Nguyễn, số 155A Bùi Viện, nói vui: "Ở phố Tây, tranh chép cũng phải Tây Tây một chút mới bán được hàng". Cái Tây mà người họa sĩ này đề cập là tốc độ chép và xu hướng mua bán nhanh vì người nước ngoài ít khi mặc cả giá.
Đặc biệt khi chép xong "họa sĩ" không phải cho vào khung gỗ. Sau khi gỡ ra khỏi giá vẽ, tranh sẽ được khách Tây cho vào một ống nhựa để tiện cho việc di chuyển bằng máy bay. Hầu hết khách du lịch khi mua tranh như một món quà sau một lần đến Việt Nam, nên chủ đề cũng đơn giản.
Theo họa sĩ Xuân Chiếu (phòng tranh 102 Bùi Viện), một bức tranh chép cũng có nhiều cách để thưởng thức. Người thích màu sắc, người ưa bố cục, có người mua tranh chỉ vì thấy cái khung gỗ bên ngoài xinh xinh. Khách Tây cũng vậy, đôi khi thấy bức nào có vẻ Việt Nam thì mua, chứ không đòi hỏi cao hơn. Vì thế tranh về những vùng đất hay chân dung về người phụ nữ Việt bán chạy hơn. Nhiều khi đơn đặt hàng chỉ đơn thuần là chép lại một poster vừa mua được ở đâu đó của người bán dạo trên đường phố.
Tranh cho khách Tây không đòi hỏi quá cao về mỹ thuật vì không ít khách hàng là "Tây ba lô". Thế nhưng, giá cả lại được tính bằng đô nên chẳng may có khách Việt nào lỡ vào mua cũng phải chịu mức giá Tây ấy.
Thực tế cho thấy chép tranh đang là một nghề kinh doanh hái ra tiền ở các thành phố lớn. Bùi Xuân Phái là một trong những họa sĩ bị sao chép tranh nhiều nhất. Tình hình tệ hơn khi số lượng tranh giả của ông đã gấp nhiều lần tranh thật và có nguy cơ làm mất giá trị tranh thật. Cách tốt nhất là các họa sĩ nên tự cứu lấy mình trong hoàn cảnh này như giới âm nhạc là thành lập một trung tâm bảo hộ bản quyền.
(Theo SV)

Nghề chép tranh


Làm sao để tận mắt chiêm ngưỡng nụ cười huyền bí của nàng Mona Lisa khi bạn không thể lặn lội đến tận bảo tàng Louvre (Pháp)? Hãy tìm đến các nghệ nhân chép tranh, họ sẽ giúp bạn mang cả tác phẩm bất hủ này của Leonardo de Vinci về nhà.Cách đây khoảng 10 năm, ngành kinh doanh các tác phẩm hội họa như được hồi sinh và bùng nổ. Chỉ trong một thời gian ngắn, số lượng các gallery mọc lên như nấm sau mưa. Trong giai đoạn đó, nhiều người bảo rằng: “Không nghề gì giàu nhanh bằng nghề vẽ tranh bán cho Tây”.

Đến thời điểm hiện nay, lực lượng tìm đến mua tranh chép ở các gallery không chỉ là các khách hàng ngoại quốc nữa. Do mức sống ngày càng được cải thiện và nâng cao, ngày càng nhiều khách “nội” cũng đến các gallery để mua tranh với nhu cầu trang trí nội thất.

Với số tiền khiêm tốn, thậm chí ít tới mức ngạc nhiên, bạn có thể mua được một bức họa không chỉ của các danh họa Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, Đỗ Khắc Chung… mà còn cả của các danh họa lừng danh thế giới như Van Gohn, Picasso, Levitan… Tất nhiên, tất cả chỉ là phiên bản.

Họa sỹ, người là ai?

Hầu hết sinh viên các ngành mỹ thuật tìm đến công việc chép tranh như một cách tập luyện, rèn giũa cho ngòi bút của mình. Được tiếp cận với tác phẩm kinh điển của các danh họa hàng đầu thế giới, họ ít nhiều rút ra cho mình những bài học về cách phối màu, kỹ thuật, kỹ xảo trong việc sử dụng họa cụ, nâng cao cảm nhận nghệ thuật. Họ coi đó là những bài tập thực hành trước khi cầm cọ và sáng tác cho riêng mình như một nghệ sỹ thực sự.

Đồng thời, công việc này cũng đem đến cho họ một khoản thu nhập tuy không cao, nhưng cũng kha khá để đảm bảo cho cuộc sống đời sinh viên. Hầu hết các xưởng chép tranh đều hỗ trợ màu, bố trí sơn dầu và dụng cụ vẽ. Nghệ nhân chép tranh chỉ việc thu xếp thời gian và đến chép theo mẫu có sẵn do chủ gallery cung cấp - thường là qua bưu ảnh hoặc ảnh chụp tranh trong các sách mỹ thuật. Thù lao cho mỗi bức vẽ từ 50.000 đến 4-5 trăm nghìn đồng, tùy theo khổ tranh và mức độ khó, tay nghề của người chép tranh.

Không chỉ có các sinh viên, những người đã “mang danh” họa sỹ mới bước vào nghề cũng chọn việc chép tranh để làm bước đệm “lấy ngắn nuôi dài”, lấy… bánh mì nuôi lòng đam mê sáng tạo.

Nhiều họa sỹ có tài đã đi lên từ nghề này, nhưng cũng có nhiều người, do áp lực cuộc sống đã găn bó suốt đời với nghề chép tranh. Chép tranh, tích cóp tiền, mở gallery rồi lại chép tranh,…

Những dị bản tiêu cực

Chép tranh là một nghệ thuật đáng trân trọng, bởi người làm công việc này đòi hỏi phải có trình độ và tài năng. Tuy nhiên, sự chi phối của thu nhập đã làm nảy sinh nhiều “dị bản” của nghề, dẫn đến một thực trạng khá bừa bãi.

Trước một thị trường ngày càng rộng mở, lực lượng nghệ nhân chép tranh lý ra cũng theo đó mà mức thu nhập nâng cao hơn. Nhưng hiện nay đang tồn tại một thực tế là tay nghề của lực lượng chép tranh này ngày càng kém, số lượng tranh tăng tỉ lệ nghịch với chất lượng.

Ngày càng ít sinh viên Mỹ thuật tìm đến nghề này, các thợ chép kỳ cựu cũng đã toan về già. Song đội ngũ chép tranh lại có vẻ “xôm tụ” hơn vì có sự góp mặt của nhiều giới, nhiều vùng… Các gallery tranh nhau làm ẩu, hạ giá thành để tranh giành khách đã dẫn đến hậu quả là thị trường tranh chép vốn có sức hút bỗng trở nên lộn xộn, vàng thau lẫn lộn.

Hầu hết các gallery ở khu phố chuyên bán cho khách “Tây ba lô” luôn quan niệm khách mua rồi đi ngay nên chất lượng khá tệ. Nhiều tranh chép ở đây làm ẩu đến mức có khi chưa kịp bán thì màu đã nhạt hoặc loang lổ.

Một phòng tranh ở phố Hàng Khay chỉ rộng chừng 12-20m2 cho cả thợ vẽ chen chúc cùng đống tranh trưng bày. Khuất trong góc tường là hàng chục bức tranh xếp hàng chờ bán. Ngoài bản sao của các tác giả nổi tiếng, bản sao tranh của các họa sỹ đương đại trong nước cũng được chép lại khá chu đáo và khéo léo, thậm chí chép cả… chữ ký của tác giả - khéo đến nỗi chính tác giả cũng phân vân không phân biệt nổi đâu là con mình.

Rồi chẳng mấy lúc, con mình trở thành con người, những bức tranh chép lại được bán với giá “thật”, chẳng hề “bình dân” chút nào.

Đây thực sự là việc vi phạm bản quyền rất đáng lên án, làm cho nghề chép tranh xấu đi trong cái nhìn của xã hội. Một họa sỹ có thể sẽ phải thai nghén vài năm cho một tác phẩm trong khi thợ chép chỉ cần chưa đến một tuần đã có thể “sao y bản chính” bằng công nghệ copy hoàn chỉnh nhất.

Tệ hơn, một số tác giả trẻ khi nhận thấy tranh của mình bán được trên thị trường bèn nảy ra ý tưởng… “nhân bản” bức tranh đó ra vô số, gửi bán ở nhiều gallery khác nhau để kiếm lời, và “nhân thể” kiếm danh. Điều này tạo nên sự nghi ngại của khách hàng mỗi khi bước chân vào gallery.

Xây dựng thị trường tranh lành mạnh

Cũng như những nghề lương thiện khác, nghề chép tranh rất đáng được trân trọng. Họ làm ra sản phẩm cho xã hội từ chính sức lao động của mình, song sản phẩm đó có được xã hội chấp nhận hay không lại tùy thuộc vào lương tâm của người làm nghề.

Tuy nhiên, nên chăng trên mỗi phiên bản nên có ghi chú là sao chép (reproduction) của tác giả X,Y… nào đó để tôn trọng bản quyền của người sáng tác hơn là mạo danh của họ để bán được tranh.

Đã có những tranh cãi, những chuyện kiện tụng không hay xung quanh vấn đề này. Các cơ quan có chức năng cũng nên có một số quy định rõ ràng về việc này để tranh chép không quá lộn xộn như hiện nay, và tìm được đúng chỗ đứng của nó.(Theo Dân Trí)

Chép tranh – thật, giả khó lường!

- Trong khoảng hơn mười năm trở lại đây, ngành kinh doanh tác phẩm hội họa như được hồi sinh khi khách trong và ngoài nước tìm mua tranh nhiều hơn. Các họa sĩ sáng tác đã có “đất” để “vẫy vùng” đường cọ, nét bút. Thế nhưng, sau cơn hứng khởi, họ bắt đầu lo lắng trước sự lớn mạnh không ngừng của đội ngũ ...chép tranh.

Những tác phẩm như thế này thường được những người chơi tranh chép lại.
Cùng với chuyện bán tranh do chính mình vẽ, nhiều họa sĩ sáng tác đã phát hiện "đứa con" của mình bị “sao chép” một cách bí mật. Những bức tranh chép ấy được đưa ra bày bán khi thì công khai, lúc có vẻ bí mật.

Giờ đây, nghề sao chép tranh đang trở nên thịnh hành và có thu nhập đáng kể. Các tác giả đích thực phải mất từ vài tháng đến một năm mới hoàn thành một bức tranh, nhưng người sao chép có khi chỉ trong một tuần lễ là đã hoàn chỉnh, "xịn" đến mức người xem không thể nhận ra đâu là thật và đâu là giả… Nếu là tranh thuộc loại tài sản quốc gia (tác phẩm của Nguyễn Sáng, Nguyễn Phan Chánh, Trần Văn Cẩm, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, v.v…) thì họ chép ở nơi bí mật “cấm người lạ vào”. Hoặc các loại tranh nước ngoài như Van Gogh, Gouguin, Walt Disney… thì cứ thuê thợ chép ở các phòng vẽ, các gallery, v.v… Có thể kể các phòng tranh, các gallery tự do chép tranh như: N.A ở đường Đồng Khởi (Quận 1, TP.HCM), T.H, A.C, gallery B. , T.U.V … cũng trên con đường đông khách nước ngoài ấy. Còn các gallery N.Đ trên đường Điện Biên Phủ (Q.3), A.H và L. đường Trường Sơn (Q.10)… cũng ào ào “sáng tác” kiểu ấy.

Mỗi nghệ nhân chép tranh được trả thù lao một tác phẩm khuôn khổ 60x80cm không quá 300.000 đồng tiền Việt, nhưng khi chủ nhân bán ra cho khách phải thì giá được hét lên đến cả ngàn đô la Mỹ – quả là một khoảng cách… đáng nể!

Trong số các nghệ nhân làm riêng lẻ với các tác phẩm lớn, phải kể đến hai trong số các bậc “mét” trong nghề: N.T.L ở quận I và T.V.Y ở quận 10. Đây là hai nghệ nhân chép tranh có tầm cỡ, có khả năng tái hiện, phục chế một bức tranh cổ trên 50 năm. Họ vẽ và xông khói cho bức tranh trở màu cũ kỹ giống y như tác phẩm thật. Tác phẩm chép xong chỉ bán thẳng cho khách nên không ai có thể tìm ra được nguồn gốc của những bức tranh này.

Hiện nay, các tay chép tranh tập trung khai thác sản xuất số lượng tranh quá lớn của Bùi Xuân Phái đến đỗi giờ đây, khách mua nghe đến tranh của ông là lắc đầu nghi ngờ ngay lập tức. Có câu chuyện thật không biết nên cười hay nên khóc về tranh của Bùi Xuân Phái như sau: một vị khách Đài Loan tìm đến gallery của bà N. mua tranh “phố nhái” (đây là tranh thật 100%) sau khi mang về nước, một tháng sau vị khách này quay trở lại đòi hoàn tiền vì cho rằng đây là… tranh giả (!).

Họa sĩ Rừng và tác phẩm"Trên tầng thanh khí" do anh sáng tác.
Còn tranh của Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Tạ Ty, Thái Tuấn, Văn Đen… cũng không thoát khỏi tình trạng bị sao chép. Sao chép khéo đến nỗi có lẽ chính các tác giả, cũng không thể nào nhận ra được một bức nào cả. Và tất nhiên, không ai nghĩ đến việc trả bản quyền cho tác giả khi bán những bức tranh sao chép này.

Chép tranh là một nghệ thuật đáng trân trọng – bởi người làm công việc này đòi hỏi cần phải có một trình độ và tài năng. Tất nhiên, đối với những ai lạm dụng cái “danh” của tác giả để khai thác tận cùng, khai thác tràn ngập làm rối loạn chung nền nghệ thuật hội họa Việt Nam đang được thế giới chú ý là điều cần xem xét, bởi với một tác phẩm mà số bản lại quá nhiều, tranh nào cũng có chữ ký “như thật” của tác giả. Tại sao không ghi rõ là “sao chép” (Reproduction) lại của họa sĩ X hay họa sĩ Y nào đó, để người mua khỏi phải khó chịu khi mua?

Kết thúc đợt thanh tra các cơ sở sao chép tranh:

Thực hiện quy chế? Còn xa vời lắm!
Một cửa hàng bán tranh chépQua đợt thanh tra đầu tiên về sao chép tác phẩm tạo hình trên toàn quốc, có thể thấy rằng dù Quy chế về hoạt động này đã được ban hành một năm, nhưng việc thực hiện nó thì còn xa vời lắm.
Những "kỷ lục" từ các cửa hàng chép tranh!
Theo kết quả thanh tra, đứng đầu bảng các họa sĩ VN (đã quá cố) bị "chép" tại các cửa hàng chép tranh (CHCT) ở Hà Nội là Bùi Xuân Phái. Sau đó là đến Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn...
Chiều ngày 14-7, đợt thanh tra các cơ sở sao chép tác phẩm tạo hình trên địa bàn toàn quốc (chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Huế, Hội An...) kéo dài trong gần 1 tháng đã kết thúc. Đây là lần thanh tra đầu tiên đúng một năm sau khi Quy chế sao chép tác phẩm tạo hình (Quy chế) được ban hành theo QĐ 17/2004 của Bộ Văn hóa - Thông tin.
Đợt thanh tra này do Đoàn thanh tra văn hóa ( Bộ TT-VH) phối hợp với Vụ Mỹ thuật tiến hành nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động sao chép tác phẩm tạo hình. Một hoạt động cách đây không lâu vẫn được coi là kinh doanh tự do, nằm ngoài sự kiểm xét của các cơ quan văn hoá với hơn 160 cơ sở tại TP Hồ Chí Minh. 118 cơ sở tại Hà Nội, làm "nhiễu" thị trường nghệ thuật hàng chục năm nay...Trong số tác phẩm của các họa sĩ quá cố, bức bị chép nhiều nhất là bức "Thiếu nữ bên hoa huệ" của Tô Ngọc Vân. Trừ Tô Ngọc Vân mất đã hơn 50 năm (ngoài thời hạn bảo hộ), còn lại hầu hết các tác giả kia vẫn còn trong thời hạn bảo hộ của Quy chế nêu trên, cũng có nghĩa là việc chép tranh không xin phép chủ sở hữu là vi phạm bản quyền.
Còn những họa sĩ vẫn "sống sờ sờ" bị chép tranh thì hàng đầu phải kể đến Đào Hải Phong, Thành Chương (miền bắc), Lê Thanh Sơn, Nguyễn Thanh Bình (miền nam)...
Một họa sĩ làm chuyên gia thẩm định cho đoàn thanh tra phải kêu lên: "Thật đáng thương cho Đào Hải Phong".
Rất dễ nhận ra tranh cóp của ba họa sĩ trung niên này: Tranh Đào Hải Phong thường vẽ một hai ngôi nhà với mấy lùm cây bằng mầu gốc lam, đỏ trắng, vàng ít trộn, trông ánh sáng rất cinema, xanh đỏ tưng bừng. Tranh của Thành Chương thường vẽ một hai con trâu cùng vài cậu bé mặt tròn lùn tịt vặn vẹo với hòa sắc lục vàng điểm đỏ cánh sen. Tranh của Nguyễn Thanh Bình vẽ mấy cô nữ sinh áo trắng mờ mịt trong hòa sắc nâu nhạt.
Những loại tranh này đại diện cho một khuynh hướng thẩm mỹ thị dân ưa cái gì đèm đẹp, xinh xinh, có tí đồng quê, có tí lãng mạn dễ coi, để trang trí ở đâu cũng tiện. Thế nên tranh thật đã bán rất chạy, tranh chép, tranh nhái của họ lại còn chạy hơn.
Tuy nhiên tay nghề thợ chép cũng còn lâu mới "gọi hồn" được tranh thật. Điều này tương xứng với giá tranh thật của ba tác giả trên cỡ hàng trăm (USD) trở lên, trong khi tranh chép giá chỉ vài trăm ngàn tiền Việt. Nhưng chép thì ít, mà nhái phong cách thì rất phổ biến.
Ở cửa hàng số 18 Nhà Chung (Hà Nội) có bày mấy bức tranh nhái hệt mầu và hình tranh của Thành Chương, nhưng ký tên dưới rất chĩnh chệ là Phạm Đức Nghĩa. Hầu hết các cửa hàng chép tranh trên tập trung trên phố Nguyễn Thái Học (Ba Đình), Hàng Trống, Hàng Bè (Hoàn Kiếm) đều có tranh nhái của mấy tác giả trên...
"Quy chế sao chép...": Bao giờ mới đi vào thực tiễn?
Tuy Quy chế đã ban hành và được thực hiện hơn một năm, nhưng đợt kiểm tra trên cho thấy rằng các chủ hàng hầu hết không hề biết đến nó. Không loại trừ có trường hợp "cố tình không hiểu", nhưng thực sự là khi cấp giấy phép kinh doanh, họ không hề được phổ biến, nhắc nhở chút gì về Quy chế (từ khi bỏ giấy phép hành nghề, những mặt hàng văn hóa phẩm này cũng nằm ngoài sự kiểm xét của ngành văn hóa).
Thậm chí ngay cả cán bộ văn hoá quận Hoàn Kiếm cũng rất lơ tơ mơ về quy chế này. Họ chống chế rằng việc này đâu có "nhức nhối" như các tệ nạn khác, trong khi còn bao nhiêu việc khác phải làm trong ngày...!
Tuy cùng là một hoạt động, nhưng việc sao chép tranh ở miền nam có vẻ có quy củ hơn miền bắc. Các chủ cửa hàng chép tranh trong TP.HCM đều trình ra giấy phép Đăng ký kinh doanh đàng hoàng ghi đăng ký kinh doanh ngành nghề "sao chép tranh".
Trong khi đó các cửa hàng tại Hà Nội chỉ đề trên Giấy phép kinh doanh là bán tranh, bán khung, bán đồ lưu niệm, thậm chí kết hợp cả bán tranh với... cho thuê phòng trọ! Tranh chép cũng không phải "hàng tươi", thường là do sinh viên mỹ thuật, các hoạ sĩ tầm tầm vẽ rồi ký gửi, khi bán được mới tính tiền.
Điều đó rất khó và phi thực tế đối với việc muốn chép một bức tranh "phải được sự đồng ý của chủ sở hữu tác phẩm bằng văn bản" (Điều 5, khoản 1 của Quy chế). Vì gởi bán một bức tranh vài trăm ngàn (không biết bao giờ mới bán được) không ai nghĩ đến việc phải tìm tác giả hoặc chủ sở hữu để xin phép cả. Thế nên dẫn đến tình trạng vi phạm quy chế là... 100%!
Văn bản dưới luật, còn quá chung chung!
Có hai vấn đề nổi cộm nữa trong khi thanh tra các cửa hàng chép tranh. Đó là việc tranh của hoạ sĩ nước ngoài (còn sống) bị chép ngang nhiên, trong khi VN đã tham gia Công ước Berne. Đó là trường hợp hoạ sĩ người Colombia Fernando Botero và các bức "tranh béo" của ông (hoạ sĩ này vẽ cái gì cũng béo tròn: người béo, chó mèo béo, ngựa béo, nàng Mona Lisa béo).
Hiện nay tình trạng tranh chép từ ảnh là vô cùng nhiều, và đó cũng là một biểu hiện vi phạm bản quyền (chuyển chất liệu). Trong khi đó, Quy chế không hề có dòng nào đề cập đến tình trạng này...
Việc các văn bản luật ban hành chậm hơn với thực tế là điều dễ hiểu. Nhưng "khó hiểu" hơn cả là một số văn bản dưới luật quy định chi tiết việc thực hiện các vấn đề bản quyền hiện nay còn quá chung chung và nhiều điểm trong đó là "phi thực tế". Điều đó dẫn đến tình trạng quy chế cứ ban ra, mà việc thực hiện rốt cuộc cũng chẳng đâu vào đâu.
Theo Thể thao và Văn hóa